TIN LIÊN QUAN | |
Không khí thiền môn | |
Lên Đồng Văn Mèo Vạc |
Tuy là người ngoại đạo nhưng tôi cũng thích thú đọc tác phẩm có 239 trang của ông, tóm lược một cách giản dị và sáng sủa các vấn đề y học sâu sắc trên nền tảng văn minh nhân loại. Đây là cuốn sách nhập môn khoa học luận dành cho sinh viên y.
Câu hỏi chủ yếu đặt ra là: đào tạo y, bác sĩ có cần văn hóa chung không, ngoài kiến thức chuyên môn? Theo tôi nghĩ, Đông y qua thực hành đã trả lời là có. Ở nước ta, cho đến hết thời Pháp thuộc, không có trường đào tạo y học truyền thống, trừ một số trường hợp đặc biệt như ở cung đình. Các thầy lang đều là những người có Nho học, nghĩa là có văn hóa chung, có thể đi thi đỗ làm quan, hoặc làm thầy đồ, thầy địa, thầy cúng. Họ có thể hành nghề bằng cách theo học một thầy lang lâu năm trong nghề hoặc đọc sách y dược học mà tự mày mò. Những danh sư đều chịu khó đọc sách mở rộng kiến thức chung. Ở Trung Quốc, đào tạo y rất quy củ, có kỳ thi hàng năm. Gần đây, trong chương trình y học ở Pháp, ngay những năm đầu đã có thêm môn epis-temologie (Khoa học luận). Điều này chứng tỏ là theo nhận thức mới, đào tạo y học rất cần đến văn hóa chung.
Khoa học luận là gì? Đó là môn học nghiên cứu về nguồn gốc của khoa học và từng khoa học riêng lẻ đánh giá được giá trị của nó và hiệu quả đến đâu, có nghĩa là tư duy về bản thân khoa học, con đường logic nào dẫn đến những nguyên tắc và phương pháp trong môn khoa học trong quá trình lịch sử. Thường thường, chương trình y học mấy năm đầu chỉ biết đến những môn khoa học cơ bản, nhưng ngày nay môn Sinh học phân tử (biologie moliculaire) có phạm vi bao quát đến mức không tách biệt y học riêng ra được và phải trở lại văn hóa chung, tức là kiến thức kiểu cổ điển, không thể chỉ biết chuyên môn của mình. Tư duy khoa học hiện đại phải mang tính liên ngành. Nhà khoa học nào, có ý thức hay vô thức, cũng thực hiện Khoa học luận trong khi hành nghề.
Ảnh minh họa. |
Bước vào thế kỷ XXI, kỹ thuật biến chuyển như vũ bão, không để cho ta có thì giờ suy ngẫm về quá khứ, hay về mục tiêu của khoa học, về các vấn đề y đức, những nguy cơ về sử dụng gen trong di truyền học... Vì vậy, sinh viên y khoa nên tập trung tư duy ngay từ bước đầu, để rồi luôn luôn đặt câu hỏi trong quá trình học tập và hành nghề. Cũng cần tìm hiểu các nền văn minh thế giới về các dịch bệnh toàn cầu trong lịch sử, để đặt con người vào môi trường lịch sử, có ý thức về số phận mong manh của con người và khả năng con người biết tìm cách phòng ngự, tổ chức để tự vệ mà tồn tại.
Cuốn Lịch sử y học - Khoa học luận nhập môn được biên soạn theo tinh thần ấy. Phần đầu nhìn chung lịch sử y học thế giới qua những nền văn minh từ cổ đại đến hiện đại: Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ, La Mã, Arab, châu Âu (Trung cổ, Phục hưng thế kỷ 17-18, 19-20). Mỗi chương trình giới thiệu một nền văn minh và y học của nó trong khoảng 10 trang, nhưng quả là một công trình tổng hợp chắt lọc, đúc kết những kiến thức cơ bản.
Lấy ví dụ chương về Trung Quốc. Nhận xét chung về nền văn hóa: độc đáo, phát triển độc lập, một thời gian dài vượt phương Tây. Môi trường địa lý (cách biệt lâu dài bởi địa lý và ngôn ngữ, chữ Hán, 3 miền), lịch sử (10 thời kỳ, mỗi thời kỳ tạo ra giá trị văn hóa như thời Hạ đã có chõ đồ xôi, thời Chu có bách gia chư tử, thời Đường có thuốc súng...), các tôn giáo. Vũ trụ quan (người Hán có thiên tử cao hơn hết, Lão học và Pháp gia thúc đẩy khoa học hơn Khổng học, nguyên tắc: âm dương, ngũ hành), sáng chế: toán (bàn tính, chấp nhận số không (0) của Ấn Độ, tính pi chính xác hơn Hy Lạp), về bản đồ, máy đo thời gian, kim chỉ nam, ướp xác (một phụ nữ từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên hiện vẫn nguyên xác), thuốc súng, côn trùng học (như nuôi tằm). Nền y học Trung Quốc thì kiến hiệu (cho thấy có kết quả tốt), nhưng còn kém phương Tây vì thiếu hai môn giải phẫu học và sinh lý học do đạo Phật và Khổng học không cho mổ xẻ thi thể.
Phần hai cuốn sách nghiên cứu những bệnh gây tai họa cho nhân loại, ảnh hưởng đến tôn giáo, nghệ thuật, dân số, kinh tế, văn hóa của những dân tộc và những vùng rộng lớn. Đó là dịch tả, sốt vàng da, hủi, dịch hạch, sốt rét, HIV, lao và đậu mùa. Mỗi bệnh được đề cập đến về phương diện lịch sử triệu chứng, điều trị trong môi trường nhân văn.
Để hiểu rõ thêm về tầm quan trọng của văn hóa - kiến thức chung về khoa học luận - y khoa, xin trích lời bình luận sau đây của BS. G.Lazorthes: Nghiên cứu và đôi khi hành nghề khiến các thầy thuốc xa rời văn hóa văn nghệ. Có nguy cơ là họ trở thành những nhà chuyên môn hay công chức chỉ sử dụng một số bài thuốc. Không bao giờ những kiến thức khoa học và kỹ thuật có thể bù đắp cho sự thiếu hụt về văn hóa chung và đặc biệt về mặt văn chương. Có hai nguy cơ đối với nghề y: siêu chuyên môn hóa nên coi thường yếu tố con người trong y học, làm méo mó ngôn ngữ do dùng quá nhiều danh từ khoa học, nhiều khi mượn nước ngoài (tài liệu viết bất thành cú). Chủ nghĩa nhân văn đâu phải là sự xa hoa. Văn hóa cũng cần thiết như khoa học.
Làm ông làm bà ở Việt Nam (tiếp theo và hết) Vị trí và vai trò của “ông bà” như trên là do tính chất của nền văn hóa Việt. Hai nhà nhân ... |
Phải chăng Hồ Xuân Hương đã có thơ về Vịnh Hạ Long? Phải chăng Hồ Xuân Hương, tác giả của những bài thơ Hán thanh tao và bác học về Vịnh Hạ Long cũng chính là cô ... |
Cái thiện và cái ác Người ta sinh ra là Thiện, theo thuyết của Mạnh Tử hay Rousseau. Còn theo thuyết của Tuân Tử hay Rochefoucault thì người ta sinh ... |