TIN LIÊN QUAN | |
Thành lập Viện Nghiên cứu Quốc tế và Đối ngoại nhân dân Việt Nam | |
Quan hệ Mỹ - Trung "làm khó" ASEAN |
Xin Thứ trưởng cho biết những nội dung trọng tâm trong công tác nghiên cứu quốc tế của ngành Ngoại giao hiện nay?
Trong năm 2017 và những năm tiếp theo, nội dung chính của công tác nghiên cứu trong ngành Ngoại giao là nghiên cứu cục diện thế giới, chính sách đối nội và đối ngoại của các nước láng giềng, nước lớn, xu hướng vận động của các tổ chức quốc tế và khu vực, các điểm nóng, các thách thức an ninh phi truyền thống…
Thứ trưởng Ngoại giao Đặng Đình Quý. |
Đặc biệt, ngành Ngoại giao cần tập trung nghiên cứu về chính sách đối ngoại và quan hệ đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc, Nga và các nước lớn khác; vị trí và vai trò của ASEAN trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và các thể chế an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương; xu hướng vận động của kinh tế thế giới và khu vực; tình hình nội trị của các nước láng giềng; diễn biến và tương tác giữa các nước, các chủ thể liên quan đến Biển Đông, khu vực sông Mekong.
Công tác nghiên cứu quốc tế hiện có thế mạnh và hạn chế gì, thưa Thứ trưởng?
Công tác nghiên cứu quan hệ quốc tế của chúng ta ngày càng tiến bộ do đã phát huy được một số điểm mạnh chính. Trước hết, giữa nghiên cứu và triển khai luôn có sự gắn bó chặt chẽ và tương tác với nhau. Công tác nghiên cứu xuất phát từ yêu cầu của đối ngoại và được thực tiễn đối ngoại kiểm chứng kịp thời. Chúng ta đã bám sát nhiệm vụ đối ngoại, tham gia giải đáp và khuyến nghị chính sách về các vấn đề đối ngoại có tầm quan trọng thiết yếu đối với quyền lợi của đất nước. Từ đó, công tác nghiên cứu đã xác lập được vị trí của mình, trở thành một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại chung của đất nước. Nói cách khác, càng gắn với yêu cầu của thực tiễn đối ngoại, nghiên cứu quốc tế càng có thế mạnh.
Thứ hai, công tác nghiên cứu được Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm. Nhiều cơ chế chính sách mới được ban hành ghi nhận kết quả nghiên cứu, vinh danh những tập thể, cá nhân có các công trình nghiên cứu xuất sắc, gắn kết quả nghiên cứu với các tiêu chuẩn đánh giá cán bộ đối ngoại. Đông đảo cán bộ trong ngành hiểu rõ tầm quan trọng của công tác nghiên cứu, bước đầu coi đây là một trong những nhu cầu hàng đầu để phát triển nghề nghiệp.
Thứ ba, công tác nghiên cứu quốc tế được thể chế hóa khá cao. Hệ thống cơ sở nghiên cứu quan hệ quốc tế ngày càng được tổ chức tốt hơn. Theo đó, việc “phân vai” nghiên cứu giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu khác đã rõ hơn. Đồng thời, việc cấp và phân bổ kinh phí nghiên cứu cũng được quan tâm hơn, hợp lý hơn. Cuối cùng, những người làm nghiên cứu quốc tế trong ngành Ngoại giao nói riêng và ở nước ta nói chung đã gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Việt Nam đã dần xác định được vị trí trong “bản đồ nghiên cứu” của khu vực và quốc tế thông qua các công trình nghiên cứu được công bố và trao đổi học thuật với đồng nghiệp nước ngoài.
Các học viên tham gia Khóa bồi dưỡng “Chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam: Thời cơ và thách thức” do Bộ Ngoại giao tổ chức. |
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế. Trước hết, xét từ kết quả nghiên cứu, chúng ta còn thiếu nhiều chuyên gia, học giả với các công trình có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan/đơn vị nghiên cứu để qua đó tăng cường trao đổi, đưa ra cách nhìn nhận đa dạng, đa chiều, tạo sự thống nhất nhận thức và từ đó thống nhất hành động về các vấn đề quốc tế có liên quan đến lợi ích sát sườn của Việt Nam cũng như các vấn đề khác.
Theo Thứ trưởng, cần làm gì để phát triển công tác nghiên cứu nhằm thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các nước láng giềng ở Đông Nam Á?
Đông Nam Á là phên dậu, vành đai an ninh và phát triển trực tiếp của đất nước. Trong những chuyển biến của tình hình khu vực và thế giới, Đông Nam Á cũng đang thay đổi nhanh chóng. Năm 2017, tình hình nội trị nhiều nước trong khu vực có những diễn biến mới. Từng thành viên và cả ASEAN phải xử lý kịp thời các tác động từ những điều chỉnh chính sách của các nước lớn và từ quan hệ giữa các nước lớn với nhau, nhất là trong những vấn đề liên quan đến an ninh ở khu vực, vai trò trung tâm của ASEAN. Do đó, để phục vụ tốt hơn các lợi ích của đất nước trong quan hệ với các nước ở khu vực và trong ASEAN, công tác nghiên cứu về khu vực và từng nước Đông Nam Á cần được đẩy mạnh trên cả ba hướng: thứ nhất, nghiên cứu sâu về hướng biến động của tình hình trong từng nước, dự báo sát các tình huống, các kịch bản; thứ hai, theo dõi chặt chẽ và đánh giá kịp thời chính sách và triển khai chính sách của các nước lớn đối với từng nước và với ASEAN, nhất là trong những vấn đề thiết thân đối với an ninh và phát triển của nước ta; thứ ba, kiến nghị chính sách thúc đẩy quan hệ với từng nước, từng nhóm nước và cả ASEAN, đề ra các sáng kiến tăng cường đoàn kết, duy trì vị trí trung tâm của Hiệp hội trong các cơ chế hợp tác ở khu vực.
Nghị quyết 06-NQ/TW Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về hội nhập kinh tế quốc tế được đánh giá là văn kiện có ý nghĩa quan trọng, thể hiện rõ chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” của Đảng. Công tác nghiên cứu của ngành Ngoại giao đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng văn kiện này?
Biết mình là biết rõ lợi ích quốc gia - dân tộc của mình là gì và ở đâu. Biết người là biết đối tác quan niệm về lợi ích và phương cách thực hiện lợi ích của họ trong quan hệ với mình như thế nào. Biết thời thế là nắm xu hướng phát triển của cục diện thế giới và khu vực. Biết dừng và biết biến là cách ứng xử sao cho bảo đảm tối ưu lợi ích quốc gia - dân tộc mình. |
Nghị quyết 06-NQ/TW về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh đất nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” đề cập rất toàn diện về quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Trong khi nước ta chưa triển khai các cam kết với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, việc Trung ương ra Nghị quyết với những nội dung như trên là bước đi thể hiện sinh động chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.
Bộ Ngoại giao được giao chủ trì, phối hợp xây dựng dự thảo Đề án và dự thảo Nghị quyết trình Trung ương. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta đã phối hợp với với các bộ, ban, ngành tổ chức nghiên cứu tổng kết quá trình hội nhập quốc tế; dự báo xu hướng phát triển của tình hình khu vực và quốc tế trong 5-10 năm tới để nhận thức rõ tác động của chúng đến tiến trình hội nhập kinh tế, tiến trình nước ta thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; rà soát kỹ nội dung các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đánh giá tổng thể tác động của chúng với những ngành, những nhóm dân cư, lao động dễ bị tổn thương; nghiên cứu các định hướng để vừa nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế vừa giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Có thể nói, kết quả của các nghiên cứu này là căn cứ khoa học rất quan trọng để Trung ương xem xét, quyết định việc có cần ra nghị quyết vào lúc này hay không và nội dung nghị quyết sẽ như thế nào. Và việc Trung ương ra Nghị quyết chính là sự đánh giá cao nỗ lực của bộ ta và các bộ/ban/ngành liên quan trong công tác nghiên cứu.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!
Chính sách đối ngoại Singapore: Cân bằng hiện thực và lý tưởng Ngày 27/11, trong khóa giảng tại trường Nghiên cứu quốc tế Singapore S. Rajaratnam, Thủ tướng Lý Hiển Long nói rằng, Singapore phải chấp nhận ... |
Châu Á-Thái Bình Dương: Khu vực hứa hẹn nhất hành tinh Đó là phát biểu của Ngoại trưởng John Kerry tại Khoa Nghiên cứu Quốc tế Cấp cao thuộc Đại học John Hopkins ngày 4/11. Trong ... |
Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế kỷ niệm 20 năm thành lập Sáng 20/9, Lễ Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (NCQT) (1993-2013) đã diễn ra trong không khí ấm ... |