Mức thu nhập bình quân của lao động nữ trong các doanh nghiệp FDI ở mức trên dưới 5 triệu đồng/người/tháng. (Ảnh minh họa) |
Tham dự hội thảo có các nhà hoạch định chính sách đại diện từ các Sở ban ngành liên quan như Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng Nai, Sở Giáo dục và Đào tạo, Ban Dân tộc, Sở Y tế, Sở Xây dựng và các nhà nghiên cứu, các giảng viên của một số viện nghiên cứu, trường đại học, và đại diện các Doanh nghiệp tại Đồng Nai và các vùng lân cận.
Nghiên cứu khảo sát được thực hiện cuối năm 2014 tại 3 địa điểm: Bắc Ninh, Đồng Nai và Tp. Hồ Chí Minh. Tại mỗi địa bàn, nhóm nghiên cứu thực hiện điều tra 13 doanh nghiệp (trong đó 10 doanh nghiệp là FDI, 3 doanh nghiệp nằm ngoài FDI) có hàng xuất khẩu đi châu Âu, tập trung vào những ngành nhiều lao động nữ may mặc, da giày, dệt, thủy sản, chế biến thực phẩm.
Nghiên cứu tập trung vào một số nội dung chủ yếu: Thu nhập của lao động nữ di cư, cách sử dụng thu nhập, điều kiện sống hiện tại, dự định cho tương lai, các vấn đề khác như gia đình, con cái…Báo cáo về nghiên cứu khảo sát được hoàn thành vào tháng 3/2015 và đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp trong phiên tọa đàm ngày 15/4/2015 tại Hà Nội.
Theo khảo sát, lao động trong các doanh nghiệp FDI hoạt động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Hà Nội, thành phố HCM, Bình Dương và Đồng Nai hầu hết là lao động di cư đến từ các địa phương khác, trong đó lao động nữ chiếm một tỷ lệ khá lớn, chủ yếu làm việc trong các ngành như may mặc, da giày, điện tử, chế biến thực phẩm... Mức thu nhập bình quân của lao động nữ trong các doanh nghiệp FDI ở mức trên dưới 5 triệu đồng/người/tháng.
Nguồn thu nhập chủ yếu từ tiền lương, làm thêm giờ, phụ cấp, tiền thưởng… Ở nơi cư trú mới, với đồng lương nhận được, người nhập cư gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống bởi các chi phí về nhà ở, giáo dục, y tế, chi phí sinh hoạt.
Mức độ trang bị phương tiện bảo hộ lao động của lao động nữ di cư cũng luôn thấp hơn so với lao động nữ địa phương (84,8% so với 95,7%). Vấn đề tiếp cận nhà ở và các vấn đề về giáo dục con cái, chăm sóc sức khỏe y tế của lao động nữ nhập cư còn nhiều hạn chế.
Tình trạng khó khăn trong việc tiếp cận với trường học, nhà trẻ của lao động nữ di cư trong các doanh nghiệp FDI là 69,1%; trong khi đối với nhóm lao động nữ di cư ngoài FDI là 3,7% và lao động nữ địa phương là 1,1%.
Tiến sỹ Bùi Sỹ Tuấn, Trưởng phòng Nghiên cứu chính sách an sinh xã hội, Viện Khoa học Lao động và Xã hội khuyến nghị, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cần nghiên cứu cơ chế phát triển các trung tâm, trạm đón lao động di cư, thu hút, tuyển dụng lao động nhằm hỗ trợ người lao động từ các vùng đến thành phố tìm việc làm.
Bộ cũng cần đổi mới công tác dạy nghề, đào tạo nghề chất lượng hơn để đảm bảo nguồn cung lao động tốt hơn cho doanh nghiệp FDI; nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động như chính sách làm thêm giờ, lao động đặc thù, lao động nữ, lao động di cư, bởi đây là nhóm lao động dễ tổn thương, cần được hỗ trợ.
Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh, hiện thành phố có khoảng 890.000 lao động nữ. Theo dự báo, trong khoảng 10 năm tới, mỗi năm Thành phố Hồ Chí Minh cần thêm khoảng 270.000 lao động, trong đó hơn 50% là lao động nữ.
Đa số lao động nữ nhập cư có hoàn cảnh khó khăn, trình độ văn hóa, trình độ nghiệp vụ chuyên môn thấp, tham gia làm việc ở những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và thu nhập không cao.
Do đó, việc mở rộng các chương trình hỗ trợ vốn cho người nhập cư, đặc biệt là lao động nữ sẽ giúp đối tượng này có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ về nhà ở và các nhu cầu khác.
Đoàn Hương