Cuộc khủng hoảng bất động sản và tín dụng đang quét qua nước Mỹ và đồng USD đang sụt giá đến mức thấp nhất so với các đồng tiền khác. Đây cũng là thời điểm 10 năm trước cuộc khủng hoảng tài chính tràn vào Đông Á và là lúc để xem tác động của lần này khác gì so với trước đối với khu vực này. Đương nhiên sẽ có một số tác động, cũng như tác động mà những nền kinh tế phát triển đã phải chịu từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á trong hai năm 1997-1998. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa không có chỗ để ẩn náu. Nhưng trừ phi tình hình nền kinh tế lớn nhất thế giới bị suy sút đột ngột hoặc suy sụp, vẫn có sự tăng trưởng sâu hơn và lâu dài hơn so với dự kiến. Khu vực Đông Á đang phát triển phải xuất hiện với tỷ lệ tăng trưởng dù thấp hơn nhưng vẫn còn rất mạnh - chúng tôi ước tính là giảm 1-2% điểm so với năm 2007.
Là năm đạt tỷ lệ tăng trưởng cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng lần trước, năm ngoái tại khu vực Đông Á, Trung Quốc đã ghi nhận tỷ lệ tăng trưởng ở mức 10,2%/năm. Dự trữ cao (hơn 2,5 nghìn tỷ đôla cho khu vực Đông Á), các nền kinh tế được quản lý một cách thận trọng, phần lớn các chính phủ đều có khoảng trống để cắt giảm thuế hoặc cấp vốn cho các dự án sử dụng nhiều lao động, các ngân hàng có ít khoản vay khó đòi hơn và gánh nặng vay nợ thấp hơn nhiều so với trước đây. Đây không giống như các nền kinh tế run sợ và gần như đổ vỡ 10 năm trước đây, khi dòng vốn chảy ồ ạt ra khỏi khu vực. Được dẫn đường bởi những kết quả phi thường của Trung Quốc, các quốc gia Đông Á hiện đã mạnh hơn nhiều và có vị thế tốt hơn trong hầu hết mọi lĩnh vực. Tất nhiên là vẫn có một chữ "nhưng", tuy đây không phải là sự suy sụp kinh tế bình thường - trên thực tế, ngược lại là khác.
Đối mặt với hiểm nguy ở 3 mặt trận
Đông Á đang đối mặt với những nguy hiểm trên cả ba mặt trận, mà tất cả đều phải được quản lý một cách đồng thời. Trước hết, đó là tác động của việc nền kinh tế Mỹ giảm tốc, có nghĩa là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của châu Á sang Mỹ sẽ giảm. Ngoài ra, còn có nguy cơ các nhà đầu tư ở châu Á sẽ lùi lại một chút để chờ xem tình hình của Mỹ rốt cuộc sẽ ra sao, điều này làm nản lòng đôi chút các thị trường tín dụng và cổ phiếu, các tác dụng phụ khác có thể còn nhiều hơn.
Thứ hai, là tác động của giá nhiên liệu và giá lương thực cao. Dầu, ngũ cốc và kim loại đều đang đạt đến mức giá kỷ lục, chủ yếu là do cầu tăng, chứ không phải do thiếu cung. Các mức giá này đẩy chi phí của những người tiêu dùng bình thường lên cao và bắt buộc các chính phủ phải xử lý những ảnh hưởng của áp lực lạm phát gia tăng và trong một số trường hợp, là tác động ngân sách gia tăng từ những việc như trợ giá nhiên liệu.
Mặc dù một số mức giá lương thực tăng cao là có lợi cho nông dân, nhưng nhìn chung lại có tác động gay gắt đến những người nghèo nhất ở châu Á. Quan tâm đến yêu cầu duy trì ổn định xã hội, các chính phủ sẽ phải để mắt đến bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy người nghèo và những người sống ngoài lề xã hội bị tổn thương. Một số chính phủ đã bắt đầu có những hành động nhằm giảm bớt tác động đối với người nghèo. Vào những thời điểm như vậy, điều quan trọng là phải đảm bảo cho người nghèo không bị tổn thương một cách không đồng đều - vì những lý do nhân đạo cũng như xã hội và kinh tế căn bản - nhưng điều quan trọng không kém là hỗ trợ họ theo những cách thức không tạo ra những bóp méo thị trường mới vì những bóp méo thị trường này sẽ có tác động tiêu cực sau này. Bất kỳ biện pháp can thiệp kinh tế nào nhằm giảm tác động của giá nhiên liệu và lương thực tăng cao đều phải có mục tiêu, đều chỉ là biện pháp tạm thời, và là một phần của biện pháp tiếp cận chính sách phối hợp nhằm cho phép các thị trường trong nước đáp ứng và thích ứng với những thay đổi, kể cả thay đổi về giá cả - trong số này, ít nhất phải có một số biện pháp ưu tiên cho thời gian ngắn sắp tới.
Thứ ba, và cũng có liên hệ trực tiếp với hai vấn đề ở trên, là những thách thức về chính sách vẫn đang tiếp tục diễn ra khi chuyển từ mức thu nhập trung bình lên mức thu nhập cao. Việc giảm tốc độ tăng trưởng càng nhấn mạnh những thách thức cạnh tranh và cơ cấu mà các chính phủ và xã hội đang phải đối mặt, thậm chí kể cả việc ứng phó với những thách thức này cũng đã trở nên khó khăn hơn nhiều. Đương nhiên, thách thức ở quốc gia này không giống như ở quốc gia khác: ví dụ như ở quốc gia này thì thách thức là chính sách lao động, ở quốc gia khác lại là vấn đề trợ cấp, hay hành chính công.
Các nhà lãnh đạo ở Đông Á sẽ phải xử lý vấn đề giá cả tăng cao trong khi tăng trưởng giảm tốc, đồng thời các vấn đề chính sách cấp thiết của bản thân các quốc gia cũng cần có giải pháp - những giải pháp có thể tác động đến tăng trưởng hoặc giá cả. Và hãy nhớ rằng điều này đang diễn ra khi khu vực Đông Nam Á nỗ lực hướng tới mục tiêu hội nhập kinh tế vào năm 2015.
James W. Adams