Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại sứ Ngô Điền, năm 1969. |
Tổng thống Modibo Keita
Nghĩ về Mali, tôi nhớ lại hình ảnh Tổng thống Modibo Keita, vị Tổng thống đầu tiên của nước Mali độc lập mà tôi có nhiều dịp tiếp xúc trong nhiệm kỳ Đại sứ ba năm ở Mali. Ông lớn hơn tôi khoảng 5, 6 tuổi, người cao lớn (có lẽ đến 2 mét). Đến Mali không bao lâu, tôi trở thành Trưởng đoàn ngoại giao nên vào những dịp lễ thường đứng cạnh và chụp ảnh với Tổng thống, sự cách biệt về "tầm cỡ" càng thêm rõ rệt.
M. Keita theo dõi kỹ vấn đề Việt Nam (VN), rất khâm phục Bác Hồ và tinh thần đấu tranh bất khuất của dân tộc ta. Theo tập quán trong Tổ chức Tập hợp Dân chủ Châu Phi (Rassemblement Démocratique Africain) có xu hướng xưng hô "mày tao" (tutoyer) với nhau, gọi nhau là đồng chí. Do xem cách mạng VN như là bạn của mình, Tổng thống và các cộng sự của ông gọi tôi và các anh chị em VN công tác ở Mali là đồng chí. Trong những dịp tiếp xúc, Tổng thống nói chuyện rất thân tình, cởi mở, đánh giá cao những kinh nghiệm VN, rất khen ngợi các chuyên gia y tế và giáo dục của ta. Đặc biệt là sau khi đi thăm Việt Nam về, ông thường nhắc tới Bác Hồ, đến những kỷ niệm gặp gỡ, trao đổi, thăm quan ở VN.
Tuy Tổng thống và số cộng sự quanh ông là người tiến bộ nhưng bộ máy của nước Cộng hòa Mali độc lập vẫn là bộ máy do thực dân để lại. Năm cuối cùng của nhiệm kỳ, tôi đã nghe thấy một số dư luận chống đối chính quyền và những tin đồn có âm mưu lật đổ. Hôm đến chào từ biệt (8/1965) khi sắp cáo từ, tôi hỏi: Thưa Tổng thống, không biết đồng chí có nắm chắc lực lượng quân sự và an ninh hay không? Tổng thống cười, cảm ơn sự quan tâm của tôi và nói tôi có thể yên lòng. Tuy nhiên, ba năm sau, Tổng thống Modibo Keita đã bị một nhóm sĩ quan lật đổ.
Đi vận động cho cuộc kháng chiến chống Mỹ
Công việc chính của Đại sứ quán ta (ĐSQ) ở Mali là tuyên truyền vận động tranh thủ sự ủng hộ của các nước châu Phi đối với cuộc đấu tranh của ta nhằm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Một số đoàn của VNDCCH của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã đến Mali (các vị Nguyễn Duy Trinh, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Thị Bình) rồi từ đó đi một số nước khác. Tôi đã có dịp cùng anh Phạm Ngọc Thuần đi Ghi-nê, Senegal, Mauritania. Những nước Tây Phi này vốn là thuộc địa Pháp, có mối quan hệ với Đông Dương, đã từng ít nhiều theo dõi và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp của ta nên họ dễ thông cảm và hiểu biết đối với sự trình bày và đặt vấn đề của ta. Guinea đã có ĐSQ ta do anh Nguyễn Thương làm Đại sứ. Ở Mauritanie, Tổng thống có thái độ thân tình, ngỏ ý sẵn sàng công nhận và trao đổi Đại sứ với VNDCCH. Anh Phạm Ngọc Thuần cảm ơn rồi chỉ vào tôi nói, tôi sẽ là Đại sứ kiêm nhiệm ở Mauritanie (chưa có ý kiến của Bộ Ngoại giao).
Một lần đi vận động đáng ghi lại là lần tôi được cử đi Ghana để giới thiệu và vận động ủng hộ đấu tranh của ta với các nước dự Hội nghị Tổ chức Thống nhất Châu Phi (OUA). Anh Đỗ Thanh, Bí thư thứ hai của ĐSQ cùng đi với tôi. Đối với hội nghị, chúng tôi không phải là thành viên cũng không phải là khách mời nên chúng tôi đến Accra - Thủ đô của Ghana tự xoay xở lấy mọi điều để có thể tiếp cận các đại biểu của các nước châu Phi đến dự. Đối tượng mà chúng tôi nhằm vào để vận động là các Nguyên thủ và Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Phi vốn là thuộc địa của Anh, ít hiểu biết về Đông Dương và VN, không như những chính khách các nước Tây Phi, vốn là thuộc địa của Pháp, nên gần gũi với ta hơn.
Một lần, tôi tìm gặp Thủ tướng Zimbabwe. Họ hẹn tôi đến khách sạn. Trước giờ hẹn 5 phút, tôi đến căn hộ sang trọng của ông Thủ tướng, vào ngồi đợi ở buồng tiếp khách. Tôi tranh thủ xem lại bản trình bày bằng tiếng Anh đã chuẩn bị sẵn và học thuộc từ Mali, lấy bản đồ VN minh họa đấu tranh chống Mỹ xâm lược để sẵn trên bàn nước. Năm phút, rồi mười phút trôi qua, chẳng thấy chủ nhà ở đâu… Tôi tự nhủ mình phải kiên nhẫn. Quá hẹn 15 phút, ông Thủ tướng của quốc gia mới độc lập này từ buồng tắm đi ra, trên người còn khoác chiếc áo choàng. Ông ta xin lỗi, nói không xếp được thời gian, nhưng vì đây là nước bạn nên cố tranh thủ tiếp. Lời nói lịch sự, thái độ thì lạnh như tiền. Tôi bất chấp, cứ trình bày theo kế hoạch, có chú ý giải thích thêm những điều mà tôi nghĩ những người ngoài cuộc xa xôi như ông Thủ tướng này chắc không được rõ lắm. Tôi giở tấm bản đồ ra. Ông ta ngồi ngay ngắn lại, nghiêng người nhìn chăm chú vào những vệt đỏ chiếm đại bộ phận phần đất miền Nam VN. Lúc bấy giờ ông ta mới lên tiếng, hỏi Sài Gòn ở đâu, Huế, Tourane ở đâu, làm sao mà lại "bôi đỏ" nhiều như vậy. Thừa dịp, tôi giải thích cho ông rõ về chiến tranh nhân dân, thế chính nghĩa và từ đó là thế tất thắng của nhân dân miền Nam VN. Cuộc gặp kết thúc trong không khí thân thiện. Vì tôi không đặt mục tiêu gì quá cao, nên ra về tôi tự cổ vũ mình đã ghi được một điểm thành công.
Việt kiều ở Châu Phi
Ở đây tôi chỉ ghi lại vài mẩu chuyện về kiều bào ra ở những nơi xa xôi này của Châu Phi.
Đến Bamako, từ trên máy bay nhìn xuống tôi ngạc nhiên và xúc động thấy có khá nhiều áo dài VN. Sứ quán chỉ có hai chị Thảo (vợ anh Long Thuận Phước) và Tự (vợ anh Hoàng Đình Khung), thêm mấy chị gia đình chuyên gia, nhưng ngoài số đó còn có một số chị em VN sống rải rác trên đất nước này. Những chiếc áo dài đó được may từ những năm 50, các chị cất kỹ dưới đáy hòm, nay mới có dịp lấy ra mặc để đi đón "sứ thần" của xứ mình.
Do đâu mà các chị lại lưu lạc tới Mali? Phần lớn là do chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Chúng dùng những đội quân thuộc địa từ Châu Phi đưa sang VN, tiến hành càn quét và xây các đồn bốt trên đất nước ta. Một số lính và sĩ quan người Châu Phi bung ra "cưới vợ" VN, một số người đã đưa vợ về quê cũ của mình. Những cô gái nông thôn đó của VN đã tỏ ra rất có bản lĩnh, thích ứng với hoàn cảnh mới và đóng vai trò nội tướng trong gia đình. Ở Mopti, anh chị em VN đã đến thăm một gia đình như vậy. Người chồng khi rời VN chỉ là sĩ quan cấp thấp, về nước được thăng hàm đại tá tư lệnh cộng hòa ở cả một vùng rộng lớn. Chị vợ VN chỉ biết lõm bõm vài câu tiếng Pháp và tiếng Bambara địa phương, thế mà chị đã cai quản được cơ ngơi của nhà chồng, nuôi dạy con cái theo hướng của mình. Hỏi chuyện một đứa con đã học trung học, cháu cho biết cháu nghe và hiểu được mẹ khi mẹ nói một ngôn ngữ pha tạp vừa Việt, vừa Pháp và Bambara. Khi mẹ nói tiếng Việt, cháu nói cháu cũng hiểu chuyện nhưng tự mình thì không nói được một câu tiếng Việt nào.
Một lần ngồi chờ máy bay ở sân bay Bamako, tôi gặp hai chị kiều bào cùng đi một chuyến sang Thượng Volta (Haute Volta, nay đổi thành Burkino Fasio). Tôi hỏi: Các chị đi đâu? Trả lời: Bọn em đi Ổ gà. Ngạc nhiên quá, tôi chưa từng biết có địa danh này ở Châu Phi. Nhận thấy tôi thắc mắc, một chị giải thích: ấy là bọn em đi Ouagadougou (thủ đô Burkina Faso), gọi nó là Ổ gà cho nó gọn. Ở đó có một vài chị em, cùng bọn em có quan hệ buôn bán làm ăn; mở quán ăn, tiệm tạp hóa nên cần hàng trao đổi… Ra thế! Mà cũng kỳ diệu thay cái khả năng đơn giản hóa và Việt hóa của tiếng Việt và cũng kỳ diệu thay cái khả năng thích ứng tháo vát của chị em VN ta./.