Ông Xuân Thủy đang bế một em nhỏ tại công viên ngoại ô. Đứng sau ông là Bà Vũ Thị Đạt, phụ trách công tác lễ tân ngoại giao. |
Năm 1968, bà Vũ Thị Đạt đã có thâm niên hơn 10 năm công tác tại Vụ Lễ tân, Bộ Ngoại giao. Công việc lễ tân khiến bà thường xuyên được tiếp xúc với các Lãnh đạo Nhà nước và Bộ Ngoại giao. Có một lần, trong khi làm việc, bà tình cờ gặp ông Xuân Thủy, ông hỏi: "Cô Đạt lâu nay có học tiếng Pháp thường xuyên không?". Bà Đạt trả lời: "Dạ, em bận công việc với con nhỏ nên cũng ít có thời gian học ạ!". Ông Xuân Thủy lại bảo: "Cô phải chịu khó dành thời gian học tiếng Pháp để còn đi công tác chứ!"... Sau đó vài tháng, bà Đạt bất ngờ nhận được quyết định tháp tùng đoàn đàm phán đi Paris.
Nhận nhiệm vụ này - bà Đạt lo lắm: "Mình chưa bao giờ đi nước ngoài mà bỗng dưng lại được giao nhiệm vụ tháp tùng một đoàn đi đàm phán để quyết định vận mệnh của đất nước thế này, không biết mình có làm được không?". Lo lắng là thế nhưng bà Đạt lại tự nhủ, lãnh đạo chọn và cử mình đi, chắc chắn phải tin tưởng vào năng lực của mình nên mình phải hết sức cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
Vậy là, ngày 3/5/1968, bà Vũ Thị Đạt cùng Đoàn 37 rời Việt Nam, gửi gắm công việc chăm sóc 3 con nhỏ cho chồng mình, lòng bà ngổn ngang trăm mối. Chiếc máy bay của Liên Xô đưa đoàn tới Bắc Kinh. Sau một đêm nghỉ ngơi tại đây, đoàn tiếp tục hành trình tới Mátxcơva rồi mới đi tiếp tới Paris. Ngày 9/5/1968, chiếc chuyên cơ Nga mang số hiệu CCCP - 75454 đưa Đoàn 37 hạ cánh xuống sân bay Bourget, Paris. Tại đây, Tổng đại diện Mai Văn Bộ cùng đông đảo Việt kiều đã chờ đón đoàn cùng cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ chào mừng.
Bà Vũ Thị Đạt sinh năm 1925, sống tại Hà Nội. Bà là con gái cụ Vũ Quýnh - vốn làm việc cho Sở Tài chính Đông Pháp (tại trụ sở Bộ Ngoại giao hiện nay). Nhờ sinh ra trong gia đình nói tiếng Pháp thành thạo nên bà Vũ Thị Đạt rất giỏi tiếng Pháp giỏi. Năm 1955, bà về công tác tại Bộ Ngoại giao và làm văn thư cho Vụ Các nước Dân chủ Nhân dân và Xã hội Chủ nghĩa. Khi Bộ Ngoại giao mở lớp đào tạo kiến thức ngoại giao tại Bái Ân (nay thuộc phường Nghĩa Đô, Quận Cầu Giấy, Hà Nội), bà được theo học khóa đầu tiên. Trường đào tạo kiến thức ngoại giao ở Bái Ân chính là tiền thân của Học viện Ngoại giao ngày nay. Tại đây, bà Vũ Thị Đạt được phân công vào Tổ Anh văn, có tổng cộng 12 học viên. Nhờ đó, sau này làm công tác Lễ tân, bà không chỉ thành thạo tiếng Pháp mà còn sử dụng được cả tiếng Anh. Sau thời gian là thành viên Đoàn 37 tại Paris (từ tháng 5/1968 đến hết 1970), bà Vũ Thị Đạt trở về công tác tại Vụ Lễ tân (Bộ Ngoại giao) cho đến khi nghỉ hưu. |
Kiều bào tại Pháp tháp tùng Đoàn từ sân bay Bourget về tới khách sạn Lutétia, nơi đã được ông Mai Văn Bộ đặt từ trước đó để Đoàn ăn nghỉ trong thời gian đàm phán. Ngay khi đến nơi, với vai trò là phụ trách lễ tân, bà Đạt đã phải bắt tay ngay vào thực hiện một số lượng công việc khổng lồ mà trước đó bà không thể hình dung nổi. Vì đây là Phái đoàn hết sức quan trọng nên mọi hoạt động trao đổi trong - ngoài và ngược lại đều phải thông qua Lễ tân.
Dù thông thạo tiếng Pháp nhưng khi cùng một lúc phải trả lời đồng loạt 3-4 chiếc điện thoại thì ban đầu, bà Đạt cũng rất cuống và choáng ngợp. Sau vài ngày, bà bắt đầu quen với công việc. Chỉ có điều, khi mọi người chưa kịp làm quen với cách sinh hoạt ở khách sạn 5 sao Lutétia thì Đoàn phải chuyển địa điểm vì chi phí quá đắt đỏ, trong khi cuộc đàm phán thì không biết sẽ kéo dài đến bao giờ.
Khi Đoàn 37 đến Lutétia được vài ngày, người phục vụ của khách sạn mang lên phòng bà Đạt mấy tờ báo. Khi ra nhận báo, bà cũng chỉ cảm ơn và nghĩ là khách sạn đưa báo cho khách đọc bình thường. Nhưng đến khi giở tờ nước Pháp buổi chiều (France-Soir), bà bỗng ngạc nhiên khi thấy hình của mình được đăng trang trọng trong chuyên mục dành riêng cho Hiệp định Paris. Bức ảnh được chú thích: "Người thiếu phụ có nụ cười e lệ vừa ra khỏi khách sạn Lutétia giữ nhiều trọng trách kể từ khi bắt đầu cuộc đàm phán sơ bộ, đó là bà Đạt -phụ trách lễ tân của đoàn Bắc Việt Nam". Bài báo ngày nào vẫn được bà giữ như một kỷ niệm về những ngày đoàn Việt Nam lả tiêu điểm quan tâm cuả báo chí Pháp và quốc tế.
Vài ngày sau, Đoàn 37 chuyển sang ở và làm việc tại Trường Đảng Maurice Thorez ở Choisy-Le-Roi, ngoại ô Paris thì các thành viên trong Đoàn không còn cảm thấy bỡ ngỡ và bất tiện như ở khách sạn 5 sao nữa. Nơi đây có bếp ăn do ông Hoàng Hữu Cầm làm bếp trưởng, cùng với khoảng hơn 10 đảng viên Đảng Cộng sản Pháp làm giúp các công việc bảo vệ, lái xe và dọn dẹp tình nguyện nên mọi người trong Đoàn 37 sống khá thoải mái.
Cứ vào thứ Năm hàng tuần, các lãnh đạo trong Đoàn lại tới họp ở Trung tâm Hội nghị Kléber với sự hộ tống của đoàn môtô cảnh binh Pháp. Thời gian di chuyển giữa nơi ở và nơi đàm phán cũng mất 1 tiếng. Khi Đoàn trở về Choisy-le-Roi, thường bộ phận Lễ tân sẽ tiếp đoàn hộ tống của Pháp bằng những món ăn Việt Nam giản dị nhưng họ rất thích. Theo bà Đạt, những người Pháp phục vụ Đoàn rất nhiệt tình bởi "Việt Nam là nước đầu tiên đứng lên đánh Mỹ và luôn luôn thắng lợi, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán. Họ rất hãnh diện và phấn khởi khi được phục vụ Đoàn".
Là người phụ trách lễ tân luôn có dịp tháp tùng lãnh đạo Đoàn dự các cuộc gặp gỡ, chiêu đãi... nhưng có một điều kỳ lạ là bà Đạt không biết uống rượu. Sau này, nhiều người ngạc nhiên vì bà ở Pháp nhiều năm mà không uống được rượu - kể cả rượu vang. Vì thế, mỗi lần Đoàn 37 chiêu đãi và đi dự chiêu đãi ở Paris, bà Đạt đều chỉ lịch sự chạm cốc mà không dám nhấp môi vì sợ bị say.
Còn nhớ có lần, một cậu thiếu niên Pháp khoảng 13-14 tuổi cứ đứng trước cổng Trường Đảng Maurice Thorez và nói với bảo vệ là muốn gặp ông Lê Đức Thọ. Khi bảo vệ nói là không gặp được vì ông Thọ rất bận thì cậu bé không chịu. Thuyết phục mãi không được, bảo vệ đành báo với bà Đạt để bà giải quyết. Bà Đạt thấy rất lạ, mới ra hỏi chuyện thì cậu bé giải thích: Cậu là con một gia đình đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Một lần, ông Lê Đức Thọ đã đến chơi với gia đình cậu và mời cậu bé là khi nào rảnh thì qua Trường Đảng chơi. Thấy cậu bé kiên quyết nên bà Đạt đành phải lên báo cáo với ông Lê Đức Thọ - ông nhớ ra ngay và bảo bà Đạt mời cậu bé vào phòng gặp ông. Sau đó, trong suốt thời gian Đoàn 37 ở tại Paris, cậu bé Alain Thiebault thường xuyên đến chơi với Đoàn.
Nhiều năm sau, Alain đi làm tại một bưu điện ở Pháp và vẫn giữ mối quan hệ thân tình với những thành viên trong Đoàn 37 - đặc biệt là với bà Đạt. Mỗi khi sưu tầm được những tờ báo viết về Hội nghị Paris ngày ấy, Alain Thiebault vẫn gửi sang Việt Nam tặng bà Đạt.
Trong thời gian hơn 2 năm phục vụ tại Đoàn 37, có cơ hội tiếp xúc nhiều với Trưởng đoàn Xuân Thủy (mọi người trong Đoàn 37 thường gọi thân mật là "anh Xuân") nên bà Đạt rất khâm phục tác phong làm việc nghiêm túc, giản dị, khoa học và hết sức quan tâm đến anh em trong Đoàn của ông Xuân Thủy. Việc đấu tranh đàm phán căng thẳng là thế nhưng ông Xuân Thủy thường xuyên đảo qua bếp ăn để xem anh em ăn uống có đầy đủ không. Hồi đó, ngoài việc bao cấp ăn ở, mỗi thành viên trong Đoàn 37 được nhận phụ cấp là 20 francs/tháng nên mọi người trong Đoàn đều chi tiêu hết sức tiết kiệm.
Trong một lần đi cùng với Trưởng Đoàn, anh Xuân mới hỏi 3 thành viên nữ duy nhất trong Đoàn: "Các cô có thiếu thốn gì không? Tiền Đoàn cho có đủ tiêu không?". Nghe Trưởng đoàn hỏi vậy, bà Duyên mới đùa ông Xuân Thủy: "Không đủ anh ạ. Anh nhìn chị Đạt xem, chị ấy còn đi chân trần vì không có tiền mua bít-tất đấy!" (Kỳ thực, bà Đạt dị ứng với tất nilon nên không đi được).
Tối hôm đó, trợ lý của ông Xuân Thủy là ông Trịnh Ngọc Thái qua gặp ba chị em, đưa cho mỗi người một chiếc phong bì nhỏ và nói: "Quà của anh Xuân tặng các chị. Anh bảo các chị mua bít-tất mà đi để giữ gìn sức khỏe!". Ba chị em giở phong bì ra thì thấy bên trong mỗi chiếc có 10 francs - ba người nhìn nhau không giấu được xúc động.
Đến giờ, bà Đạt vẫn không quên những khi hai Đoàn có dịp gặp nhau, lúc đó thật vui như cuộc gặp mặt của một gia đình lớn. Ngày đó, để phân biệt hai Đoàn, Đoàn Chính phủ Mặt trận lâm thời thường gọi các thành viên Đoàn 37 với tên đệm là "Xuân". Ví dụ: chị Xuân Đạt - tức là chị Đạt ở Đoàn ông Xuân Thủy. Bà Đạt cũng không bao giờ quên những lúc hai đoàn có dịp gặp nhau, lúc đó thật vui như cuộc gặp của một gia đình lớn.