Mặc cho những thành công về địa chính trị của Trung Quốc, Mỹ có thể hy vọng những thiện chí từ Thái Bình Dương. Nhiều người ý thức được Mỹ đã làm được nhiều việc cho khu vực. Trật tự thế giới mà Mỹ tạo ra sau năm 1945 đã giúp các nền kinh tế Đông Á có thể phát triển thịnh vượng.
Câu hỏi đặt ra là liệu Mỹ có thể phát triển một chính sách dài hạn để tận dụng các thiện chí này không. Không khó để hình dung chính sách đó sẽ như thế nào. Nó nên dựa trên 5 trụ cột chính: Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc và các thể chế đa phương Châu Á - Thái Bình Dương. Nếu Washington xoay xở tốt, các cực này sẽ củng cố lẫn nhau.
Cách tiếp cận chính sách của Mỹ đối với Đông Á, nên dùng một phép ẩn dụ là “dùng thuốc Bắc hơn là thuốc Tây”. Trong thuốc Tây, mỗi căn bệnh đặc biệt – chẳng hạn ung thư hay đau tim – sẽ được điều trị riêng rẽ. Trong khi đó, thuốc Bắc sẽ xem xét toàn bộ cơ thể và luận ra bộ phận mất cân bằng. Chính sách của Mỹ nên xem xét thành một chính sách tổng thể.
Trung Quốc
Trung Quốc phải là trụ cột lớn nhất. Trung – Mỹ sẽ là mối quan hệ song phương quan trọng nhất trong thế kỷ 21. Mối quan hệ này có thể phát triển theo hai cách: Cả hai cùng thắng như cách Mỹ đã làm khi chào đón sự trỗi dậy trở lại của Đức và Nhật sau Thế chiến thứ 2 hoặc Có tổng bằng không như mối quan hệ giữa Mỹ và Liên bang Xô viết trong Chiến tranh Lạnh.
Nếu Mỹ cam kết có mối quan hệ đối tác sâu hơn với Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ tự tin cởi mở hơn với Mỹ. Mỹ nên khuyến khích trao đổi chuyên gia, đối thoại trực tiếp giữa các nhà hoạch định chính sách giữa hai bên.
ASEAN và Nhật Bản
Trụ cột thứ hai phải là ASEAN. Chứng cứ về sự thiếu quan tâm của Washington đối với ASEAN là việc các Ngoại trưởng Mỹ không dự các cuộc gặp Bộ trưởng ASEAN hàng năm. Chẳng hạn, cả hai năm 2005 và 2007, Ngoại trưởng Condoleezza Rice đều vắng mặt. Trong khi Mỹ lờ ASEAN thì các cường quốc khác đã nhận thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của ASEAN.
Sau khi Bắc Kinh đưa ra lời mời FTA (khu vực mậu dịch tự do) đối với các nước ASEAN, một cuộc cạnh tranh nổi lên để đáp ứng các yêu cầu của Trung Quốc – với cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ cũng có kế hoạch tương tự. Những cuộc đàm phán chưa kết thúc nhưng trao đổi thương mại giữa các nước này và ASEAN tăng nhanh. Sự phát triển như thế này tạo ra những mô hình hợp tác chính trị và kinh tế mới phụ thuộc lẫn nhau.
Nhật Bản nên là trụ cột thứ ba trong chính sách của Mỹ ở Đông Á. Một tuyên bố như thế có thế gây sốc cho các nhà hoạch định chính sách của Tokyo, những người tin rằng mối quan hệ Nhật – Mỹ là quan trọng nhất ở Châu Á – Thái Bình Dương. Trên thực tế, đó là mối quan hệ quan trọng nhất trong Chiến tranh Lạnh. Nhật Bản chỉ là một thành viên nhỏ bé trong các câu lạc bộ của phương Tây, từ Nhóm G8 cho đến Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Trong khi đó, Nhật Bản lại chứng kiến sự vươn lên đầy ngoạn mục của Trung Quốc và các cường quốc Đông Á khác và chưa biết làm thế nào để đáp trả. Đã đến lúc Nhật Bản cần xem lại các ưu tiên trong chính sách đối ngoại và quyết định khu vực nào nên là ưu tiên: Mỹ, Châu Âu hay Châu Á.
Bán đảo Triều Tiên
Trụ cột thứ tư nên là Triều Tiên. Có thể hơi ngạc nhiên khi Triều Tiên được xếp ở mức khá thấp trong bối cảnh gần đây, CHDCND Triều Tiên luôn là “điểm nóng” của thế giới. Sự thực là chủ thể chính ảnh hưởng tới CHDCND Triều Tiên không phải là Mỹ mà là Trung Quốc. Chỉ Trung Quốc mới có thể cắt nguồn cung dầu đối với CHDCND Triều Tiên. Trung Quốc có lợi ích to lớn trong việc ngăn chặn hạt nhân hóa ở bán đảo Triều Tiên, một phần không muốn cho Nhật Bản có lý do phát triển hạt nhân. Bởi thế, một mối quan hệ có tính xây dựng giữa Bắc Kinh và Washington là điều kiện cần thiết (mặc dù chưa đủ) để giữ gìn hòa bình trên bán đảo Triều Tiên.
Mỹ cũng có nhu cầu cấp thiết ổn định mối quan hệ với Hàn Quốc. Thực tế, Mỹ đã bảo vệ Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ và giúp Hàn Quốc vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Thêm vào đó, một bộ phận lớn người dân Hàn Quốc đã kinh qua các trường đại học của Mỹ. Bởi thế, Hàn Quốc nên nuôi dưỡng tình cảm thân Mỹ. Trong khi đó, tâm lý chống Mỹ ở Hàn Quốc lại gia tăng trong thời gian gần đây, đặc biệt là trong những năm đầu của chính quyền Bush.
Các thể chế đa phương châu Á-Thái Bình Dương
Trụ cột thứ năm nên là các thể chế đa phương Châu Á – Thái Bình Dương. Khi sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng thì nhu cầu tập hợp lại trong các thể chế đa phương ngày càng bức thiết.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã từng công khai thái độ nghi ngờ về các thể chế khu vực. Theo quan điểm của Washington thì mọi con đường ở Thái Bình Dương đều dẫn đến Washington. Mỹ tin rằng không có tổ chức nào ở khu vực nên loại trừ Mỹ. Bởi thế, khi Mahathir bin Mohamad, Nguyên Thủ tướng Malaysia khởi động Cộng đồng Kinh tế Đông Á, Ngoại trưởng Mỹ Baker đã tổ chức một chiến dịch phản đối kịch liệt. Cuối cùng, chiến dịch đã không hiệu quả. Vào năm 1997, ASEAN+3 ra đời, bao gồm 10 nước ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã tạo ra Cộng đồng Đông Á. Tổ chức này được mở rộng vào năm 2005, thêm cả Australia, Ấn Độ và New Zealand.
Chính quyền mới của Mỹ nên khuyến khích các tiến trình hình thành các thể chế đa phương ở châu Á - Thái Bình Dương. Các thể chế này sẽ tạo ra sự ổn định và thịnh vượng ở khu vực, điều thiết yếu đối với lợi ích của Mỹ.Nhiều người Mỹ cho rằng các thể chế đa phương có thể giúp Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng. Khả năng này xảy ra nếu Trung Quốc tiếp tục các chính sách khôn ngoan và thực dụng đối với các nước láng giềng. Tuy nhiên, theo truyền thống, các thể chế đa phương cũng có xu hướng chế ngự các cường quốc. Quả thực, Mỹ đã từng nghi ngờ các thể chế đa phương là nhằm chống quyền lực của Mỹ.
Bài học lớn nhất Mỹ nên rút ra từ những sự kiện sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh là khuynh hướng đơn phương của Chính quyền Bush đã gây ra thảm họa cho Mỹ. Các chính sách của Mỹ gần đây đều đồng hành với tình cảm chống Mỹ. Để đảo ngược xu hướng này và giúp Mỹ đặt dấu chân vững chắc ở khu vực quan trọng hàng đầu thế giới, Mỹ nên xem xét lại các ưu điểm của các thể chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và APEC.
Thảo Vân (gt)