Theo Bộ Công Thương, tiếp tục đà tăng trưởng từ cuối năm 2023, sản xuất công nghiệp trong Quý I/2024 tiếp tục khởi sắc với giá trị tăng thêm toàn ngành ước tính tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0,73%), đóng góp 2,02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. GDP Quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của Quý I các năm 2020-2023.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84% (sản lượng khai thác than giảm 0,3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3,2%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm.
Sản xuất công nghiệp tăng trên diện rộng khi chỉ số sản xuất công nghiệp Quý I/2024 tăng ở 54/63 địa phương. Đặc biệt, một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao ở mức hai đến ba con số do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hoặc ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao (IIP của Trà Vinh tăng 102,%; Khánh Hoà tăng 37%; Bắc Giang tăng 23,9%; Thanh Hoá tăng 20%; Hà Nam tăng 17,2%; Quảng Ninh tăng 14%...).
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực Quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước: Thép thanh, thép góc tăng 29,1%; thép cán tăng 24,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 23,1%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 21,8%; xăng dầu tăng 21,7%; phân Urê tăng 14,4%; điện sản xuất tăng 11,4%.
Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt (khí thiên nhiên) và điện thoại di động cùng giảm 13,3%; ô tô giảm 11,3%; ti vi giảm 11,1%; khí hóa lỏng LPG giảm 11,0%; xe máy giảm 5,2%.
Họp báo thường kỳ Bộ Công Thương chiều 29/3. (Ảnh: Vân Chi) |
Xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ
Với sự phục hồi của thị trường thế giới, các đơn hàng xuất khẩu gia tăng nên hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong Quý I/2024 đã có những khởi sắc và đạt được những kết quả tích cực.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 65,09 tỷ USD, tăng 35,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung Quý I/2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá ước đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 11,6%); nhập khẩu ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 15,4%).
Trong Quý I/2024, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 26,2%, tăng gần gấp đôi so với mức tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả dầu thô (tăng 13,9%), điều này cho thấy những nỗ lực của khu vực kinh tế trong nước trong việc duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Trong Quý I/2024, có 16 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 82,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 4 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,7%), nhiều hơn 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước (Quý I/2023 có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD).
Cũng trong 3 tháng đầu năm, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 26,06 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tăng 25,5% so với cùng kỳ; tiếp đến là Trung Quốc ước đạt 12,68 tỷ USD, tăng 5,2%; thị trường EU ước đạt 12,1 tỷ USD, tăng 16,3%; Hàn Quốc ước đạt 6,6 tỷ USD, tăng 12,9%; Nhật Bản ước đạt 5,7 tỷ USD, tăng 6,4%...
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa Quý I/2024 ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ. Quý I/2024 có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 40,3%.
Cán cân thương mại tháng 3/2024 tiếp tục thặng dư khoảng 2,93 tỷ USD, nâng tổng xuất siêu trong Quý lên mức 8,08 tỷ USD.
Đối với thị trường trong nước, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, Quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa Quý I/2024 ước đạt 1.190,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,4% tổng mức và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 4,5%).
Một số địa phương có doanh thu bán lẻ hàng hóa Quý I/2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Quảng Ninh tăng 9,8%; Hải Phòng tăng 9,7%; Khánh Hòa và Long An cùng tăng 9,1%; Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ cùng tăng 7%; Đà Nẵng tăng 5,9%; TP. Hồ Chí Minh tăng 5,8%; Hà Nội tăng 4,7%.
Đánh giá chung về tình hình sản xuất công nghiệp, thương mại trong 3 tháng đầu năm, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, những kết quả đạt được là rất khả quan, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của cả nền kinh tế.
Những kết quả trên đến từ hiệu quả từ các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án công nghiệp trọng điểm; Kết quả thu hút, giải ngân vốn FDI giúp tăng năng lực sản xuất trong nước.
Cùng đó, đến từ sự phục hồi của thị trường thế giới, dần chuyển sang trạng thái mới, thích ứng với những biến động lớn các năm 2022, 2023; số lượng các đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng và những nỗ lực trong việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đặc biệt là việc nâng cấp quan hệ với các đối tác thương mại lớn của nước ta như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... đã củng cố niềm tin của nhà đầu tư; Năng lực của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước được cải thiện.
Năm nay, không lo thiếu điện
Trả lời băn khoăn của phóng viên về việc liệu có xảy ra tình trạng thiếu điện trong năm 2024, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân khẳng định, có đủ cơ sở tin tưởng năm nay và những năm tiếp theo không còn xảy ra việc thiếu điện.
Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, việc để xảy ra thiếu điện như năm 2023 là một sự cố rất đáng tiếc và Chính phủ, Thủ tướng đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt để khắc phục. Đồng thời Chính phủ đã giao cho Bộ Công Thương chủ trì chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tìm mọi giải pháp khắc phục.
"Bộ Công Thương đã tập trung chỉ đạo EVN rà soát, cập nhật các yếu tố đầu vào như tốc độ tăng trưởng phụ tải điện, thời tiết (nhiệt độ, thủy văn), tiến độ nguồn điện, lưới điện, khả năng cung ứng nhiên liệu (than, khí, dầu) để tính toán, cập nhật kế hoạch đảm bảo cung ứng điện cho các tháng cao điểm mùa khô sắp tới (từ tháng 4 đến tháng 7)", ông Tân cho hay.
Bộ Công Thương đã tập trung chỉ đạo EVN rà soát, cập nhật các yếu tố đầu vào như tốc độ tăng trưởng phụ tải điện. (Nguồn: EVN Hà Nội) |
Trên cơ sở tính toán cập nhật của EVN, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, Bộ Công Thương sẽ rà soát, cập nhật lại kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện các tháng cao điểm mùa khô năm 2024 nhằm đảm bảo cung cấp đủ, liên tục nhiên liệu, đặc biệt là nhiên liệu than, khí cho nhu cầu sản xuất điện.
Cùng với đó là tăng cường giám sát, kiểm tra tình hình vận hành các thiết bị của nhà máy điện, chuẩn bị dự phòng vật tư sẵn sàng để đảm bảo độ khả dụng cao nhất của các tổ máy phát điện, đặc biệt là các nhà máy nhiệt điện ở khu vực miền Bắc.
Chỉ đạo điều tiết hợp lý các hồ chứa thủy điện với mục tiêu đảm bảo dự phòng công suất điện năng của hệ thống điện ở mức cao nhất có thể trong các tháng cao điểm mùa khô.
Yên cầu EVN tăng cường công tác rà soát hành lang lưới điện truyền tải 500-220kV, kiểm tra các thiết bị trên hệ thống truyền tải điện để kịp thời phát hiện và khắc phục các khiếm khuyết nếu có, hạn chế thấp nhất các trường hợp sự cố có thể xảy ra.
Đồng thời, Bộ Công Thương kêu gọi các địa phương đơn vị, người dân, doanh nghiệp triệt để thực hiện các giải pháp tiết kiệm điện, nhất là nhóm khách hàng sản xuất có mức tiêu thụ điện lớn.