Tàng hình cơ F-22. (Nguồn: Wikipedia) |
Mỹ đã dành hàng tỷ USD để chế tạo chiến đấu cơ tàng hình, bao gồm máy bay ném bom, tiêm kích và máy bay không người lái gián điệp…, mà theo các chuyên gia, dưới gốc độ chiến thuật, sự nguy hiểm, lợi hại nhất của Joint Strike Fighter F-35, Lockheed Martin F-22 Raptor hay của máy bay tàng hình nói chung là đánh lén, tấn công khi đối phương không nhìn thấy mình và nhờ vậy, tránh khả năng trả đũa của đối phương.
Điểm yếu trong chính điểm mạnh
Có một điều mà người ta ít đề cập, đó là nếu bỏ qua yếu tố “tàng hình”, so với máy bay thông thường như F-16, Super Hornet hay SU-35 của Nga… F-35 hay F-22 không thể "ngồi cùng chiếu”.
Đơn giản là ưu tiên cho kỹ thuật bao nhiêu thì chấp nhận hạn chế về chiến thuật bấy nhiêu. Về khả năng cơ động, vận động chiến thuật, trang bị vũ khí… F-35 và F-22, không phải là đối thủ không chiến của các máy bay không tàng hình F-16 hay SU-35… hoặc chỉ là "con mồi" quá dễ dàng đối với các hệ thống phòng không hiện đại như S-300, S-400.
Ngoài hạn chế về mặt chiến thuật và vũ khí trang bị, các tàng hình cơ đều có tầm bay giới hạn. Tầm hoạt động 900-1.200 km của F-35 có vẻ không tệ so với các máy bay không tàng hình như Super Hornet hay F-16, F-18, nhưng những máy bay này có thể mang theo thùng dầu phụ dưới cánh, trong khi F-35 không có khả năng này để đảm bảo tính năng “tàng hình”.
Người ta tính rằng, khi triển khai tấn công, các máy bay chiến đấu tàng hình và không tàng hình đều phải tập kết đồn trú tại các điểm xuất phát tấn công là các căn cứ không quân hoặc tàu sân bay gần chiến trường - luôn nằm trong tầm hỏa lực của tên lửa đối phương. Trong trường hợp xảy ra xung đột quy mô lớn, mưa tên lửa sẽ trút xuống các căn cứ không quân đối phương là điều không phải bàn cãi và các máy bay tàng hình sẽ là vật tế thần của chiến thuật chống tiếp cận/chống xâm nhập (Anti Access/Area Denial A2/AD).
Các tàng hình cơ F-35B. (Nguồn: wonderfulengineering.com) |
Với phạm vi tác chiến không lớn, F-22, F-35 cần phải được tiếp liệu trên không. Các máy bay tiếp dầu được hiện đại hóa, tự động cao để đẩy nhanh quá trình tiếp liệu… nhưng thật không may, các máy bay này có nguy cơ bị bắn hạ ngày càng cao. Phương án hạ gục máy bay tiếp dầu cồng kềnh kém cơ động và không được vũ trang dễ hơn nhiều và chúng luôn là mục tiêu được ưu tiên.
Tên lửa không đối không tầm xa như R-37 của Nga hoặc một số máy bay tàng hình do Nga hoặc Trung Quốc chế tạo cũng có khả năng “lách” máy bay chiến đấu Mỹ để tiêu diệt máy bay tiếp liệu. Nếu không được tiếp liệu, các tàng hình cơ không đủ nhiên liệu để trở về căn cứ hoặc không thể phát huy khả năng tàng hình để giáng đòn tấn công vào đối phương. Bằng không, cần phải có các “máy bay tiếp dầu tàng hình” kèm theo bao nhiêu vấn đề khác phát sinh.
"Hắc tinh" S-400 và vấn đề về tốc độ
Theo Văn phòng Trách nhiệm Chính phủ (Government Accountability Office - GAO) Mỹ, lớp kính bao quanh buồng lái của F-35 sẽ phải có lớp phủ đặc biệt để phản xạ sóng radar, ngăn sóng thâm nhập và thoát ra từ bên trong buồng lái. Nếu không, nó sẽ trở thành một nguồn phản hồi sóng radar lớn. Tuy nhiên, các thử nghiệm đã thất bại liên tục và một khi không được khắc phục, chiếc máy bay đắt đỏ nhất trong lịch sử này dễ dàng trở thành mục tiêu của các hệ thống phòng không hiện đại như S-400.
Tờ Defense News từng tiết lộ, các biến thể F-35B cất hạ cánh thẳng đứng của Thủy quân Lục chiến và F-35C trên tàu sân bay của Hải quân đều bị cái gọi là “lỗi nhóm 1” - là những lỗi có thể ngăn phi công hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau khi chiếc F-35B bay thử nghiệm ở tốc độ Mach 1,3 và chiếc F-35C - Mach 1,4, người ta đã phát hiện thấy lớp sơn tàng hình bị nổi bong bóng và phồng rộp do nhiệt độ từ động cơ duy nhất Pratt & Whitney của chúng.
Theo Svpressa.ru, sau 8 năm không tìm ra giải pháp kỹ thuật, để tránh ảnh hưởng, hiện nay các phi công F-35B và F-35C chỉ được phép bay ở tốc độ Mach 1,2 không quá 80 giây và Mach 1,3 trong tối đa 40 giây. Còn theo trang Popularmechanics, F-35C có thể bay với tốc độ tối đa Mach 1,3 tổng cộng 50 giây, trong khi F-35B bị giới hạn ở Mach 1,3 với 40 giây, nghĩa là, về lý thuyết, tốc độ tối đa Mach 1,6 với các tàng hình cơ này là “không tưởng”. Không những vậy, trong lúc tăng tốc, nếu góc tạo ra bởi cánh và luồng không khí trực diện (góc nâng) vượt quá 20 độ, chiếc F-35B và F-35C có thể trở nên không ổn định và có khả năng bị mất điều khiển.
Việc không thể bay với tốc độ siêu thanh làm giảm khả năng của máy bay, vậy mà ban đầu người ta đã quảng cáo F-35 có thể là máy bay đa năng - ném bom chiến thuật (thậm chí còn được tích hợp bom hạt nhân B-61), tiêm kích, tấn công, trinh sát, đánh chặn, máy bay cảnh báo tấn công tên lửa... Rõ ràng, “tàng hình” không bao giờ là tuyệt đối và không thể có được cả lợi thế kỹ thuật lẫn chiến thuật.
Lợi tàng hình - hại tấn công
Việc thực hiện nhiệm vụ tấn công của các tàng hình cơ đang có vấn đề và bị cản trở bởi hai điều: giảm độ cao xuống mức có thể tấn công các mục tiêu mặt đất, F-35 mất lợi thế dựa trên khả năng tàng hình, nó trở nên có thể nhìn thấy ngay cả bằng trực quan. Một trong những yêu cầu chính đối với máy bay tấn công là khả năng sống sót như SU-25 của Nga và A-10 của Mỹ đang sở hữu, và ở một mức độ lớn, khả năng sống sót được đảm bảo bằng việc sử dụng hai động cơ, thì F-35 chỉ có một.
Một điều bất cập nữa - bất chấp những nỗ lực đã được thực hiện trong một thời gian dài để tinh chỉnh, pháo cỡ nòng 25mm khi bắn vẫn làm thay đổi hướng máy bay. Pháo là một trong những vũ khí quan trọng nhất của máy bay tấn công và điều này đặc biệt đúng với F-35, vì nó chỉ có thể chứa bốn tên lửa, chưa nói đến hệ thống tác chiến điện tử của F-35 hoạt động không thật hoàn hảo.
Với F-22, thực trạng cũng không khá hơn. Các máy bay chiến đấu F-15C cũ hơn đã phải thay thế cho F-22 trong các nhiệm vụ vẫn đang tiếp diễn ở Syria. Kể từ khi được đưa vào hoạt động năm 2005, 187 chiếc F-22 chỉ đạt được tỷ lệ sẵn sàng chiến đấu khoảng 50%, một trong những tỷ lệ thấp nhất trong tất cả các loại máy bay chiến đấu của Mỹ do các hệ thống phức tạp và lớp phủ hấp thụ radar tinh tế đòi hỏi phải bảo trì chuyên sâu. F-22 Raptor sau mỗi lần cất cánh cần một quá trình vệ sinh và bảo dưỡng rất cẩn thận và mất nhiều thời gian.
Hai tàng hình cơ F-35C (bên dưới). (Nguồn: stripes.com) |
“Kỵ” radar tần số thấp
Các radar tần số thấp hoạt động trong các băng tần VHF và UHF có thể phát hiện và theo dõi máy bay có tín hiệu radar bé. Người ta thường cho rằng, các radar như vậy không thể hướng dẫn tên lửa vào mục tiêu, nhưng theo một số chuyên gia, máy bay thế hệ mới nhất của Mỹ có thể bị tiêu diệt bằng cách cải tiến xử lý tín hiệu để loại trừ các hạn chế chiều rộng chùm radar và độ rộng xung radar tần số thấp (thông qua thiết kế kích thước và hình dạng của ăng-ten), kết hợp với một tên lửa có đầu đạn lớn và hệ thống dẫn đường giai đoạn cuối riêng.
Một hạn chế truyền thống khác của radar băng tần VHF và UHF là độ rộng xung lớn và tần số lặp lại xung thấp (PRF), có khả năng xác định cự li kém. Xung có độ rộng hai mươi micro giây cự li không thể được xác định chính xác là 30,5km; hai mục tiêu gần nhau không thể được phân biệt thành hai riêng biệt. Việc tăng một phần độ chính xác về cự li đã được giải quyết vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước bằng cách xử lý tín hiệu thông qua quá trình modul hóa tần số trên xung, được sử dụng để nén xung radar. Ưu điểm của việc nén xung là với xung hai mươi micro giây, sai số cự li giảm xuống còn khoảng 54m. Có một số kỹ thuật khác có thể được sử dụng để nén xung radar như khóa chuyển pha.
Các kỹ sư đã giải quyết vấn đề về độ chính xác hướng hoặc góc phương vị bằng cách sử dụng các radar mảng pha. Không giống như các mảng quét cơ học cũ hơn, các radar mảng pha điều khiển các chùm radar bằng điện tử. Các radar như vậy có thể tạo ra nhiều chùm và có thể định hình các chùm đó về chiều rộng, tốc độ quét và các đặc tính khác. Kết quả được áp dụng vào cuối những năm 1970 cho hệ thống chiến đấu của Hải quân Aeg Aegis trên các tàu tuần dương lớp Ticonderoga và tàu khu trục lớp Arleigh Burke.
Như vậy, có thể thấy, các tàng hình cơ đắt đỏ của Mỹ có khá nhiều “tử huyệt”, rất dễ bị đối phương khai thác và hạ “đo ván”.