Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện. |
Thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2020
Tiếp tục Kỳ họp thứ 3, sáng 15/6, với 453/457 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,96% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2020.
Nghị quyết của Quốc hội nêu rõ, Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong điều kiện dịch Covid-19 bùng phát phải thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch, giãn cách xã hội, thiên tai, bão lũ xảy ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, tăng trưởng trên nhiều lĩnh vực chậm lại… nhưng tổng thu ngân sách đạt 98,2% dự toán, thu nội địa vượt 0,2% dự toán, tỷ trọng thu nội địa đạt 85,6% tăng so với năm trước, nợ thuế giảm 0,63%; bội chi ngân sách được điều hành quản lý chặt chẽ thấp hơn dự toán Quốc hội giao.
Tỷ lệ nợ công đã giảm. Kỳ hạn nợ được kéo dài, chi phí huy động giảm đã góp phần cũng cố an toàn, an ninh tài chính quốc gia, giúp tạo dư địa để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, ứng phó kịp thời với dịch bệnh.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc dự báo, đánh giá tình hình, công tác lập, chấp hành dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước năm 2020 còn nhiều tồn tại, hạn chế kéo dài nhiều năm chưa được khắc phục.
Quốc hội đề nghị Chính phủ, các bộ, cơ quan Trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp và các đơn vị quản lý thu, chi ngân sách nhà nước xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, kiểm điểm rút kinh nghiệm đối với các tồn tại, hạn chế; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, quyết toán ngân sách nhà nước để không lặp lại các tồn tại, hạn chế này trong các năm sau.
Quốc hội giao Chính phủ công khai quyết toán ngân sách nhà nước năm 2020 theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, chỉ đạo các bộ, cơ quan Trung ương, UBND các cấp và các đơn vị quản lý thu, chi ngân sách nhà nước kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế; thực hiện các biện pháp quyết liệt, đồng bộ để tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, không để xảy ra thất thoát, lãng phí.
Cùng đó là nghiên cứu báo cáo cấp có thẩm quyền sửa đổi cơ chế phân cấp ngân sách phù hợp để đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, đồng thời tăng cường tính chủ động cho các địa phương; chấn chỉnh quản lý chi đầu tư từ khâu lập, phân bổ, giao dự toán đến tổ chức, triển khai thực hiện, quyết toán các dự án đầu tư; quản lý chặt chẽ các khoản chi chuyển nguồn; khẩn trương thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước đối với quyết toán ngân sách nhà nước niên độ năm 2020; làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước…
Thống nhất về sự cần thiết sửa đổi Luật Dầu khí
Thời gian còn lại của phiên làm việc, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Dầu khí (sửa đổi).
Dự thảo Luật gồm 11 Chương, 64 Điều; kế thừa các điều khoản cơ bản của Luật Dầu khí hiện hành, bảo đảm tính ổn định, liên tục của các hợp đồng dầu khí, Hiệp định đã ký kết; bảo đảm tính tương thích, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế.
Trong phiên thảo luận toàn thể tại hội trường về dự thảo Luật, đa số đại biểu Quốc hội bày tỏ tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật Dầu khí để kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn về phát triển ngành dầu khí với vai trò là một trong những ngành quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước.
Cho ý kiến cụ thể vào các quy định của dự thảo Luật, các ý kiến của đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận vào các nội dung như tên gọi, phạm vi điều chỉnh của dự án Luật, các quy định về áp dụng pháp luật, điều tra cơ bản, hợp đồng dầu khí, nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí, ưu đãi về dầu khí, quản lý nhà nước về dầu khí… cùng các vấn đề khác các đại biểu quan tâm để hoàn thiện dự án Luật đạt chất lượng cao.
Cho rằng vấn đề bảo vệ môi trường trong các hoạt động dầu khí, quy định tại dự thảo Luật còn chưa thật cụ thể, dẫn đến khó đảm bảo triển khai trong thực tiễn, chưa gắn được trách nhiệm nếu xảy ra sự cố về môi trường, đại biểu Nguyễn Văn An (Thái Bình) đề nghị bổ sung quy định cụ thể về việc kiểm tra, giám sát hợp đồng dầu khí và các hoạt động dầu khí.
Các quy định này giao cho Chính phủ quy định chi tiết, vì hầu như các mỏ đều nằm ở ngoài biển xa và muốn tới đó để kiểm tra, khảo sát tình hình sinh thái, môi trường biển quanh mỏ rất khó khăn.
Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (Hà Nội) phát biểu tại phiên họp. |
Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (Hà Nội) nhấn mạnh dầu khí là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nếu xét về vai trò trong phát triển kinh tế, tài nguyên dầu khí chỉ đứng thứ hai sau đất đai, những đóng góp của ngành dầu khí thời gian qua là rất đáng trân trọng.
Về định hướng sửa đổi dự thảo Luật này, đại biểu cho rằng, một trong những định hướng sửa đổi quan trọng là cần hình thành cơ chế đặc thù để thu hút đầu tư nước ngoài. Đây là định hướng hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, dự thảo Luật cũng cần đề cao tính thận trọng bởi trên thực tế dầu khí là nguồn tài nguyên không tái tạo và trong những năm qua giá dầu khí luôn tăng cao.
Cuối phiên thảo luận, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An, thay mặt ban soạn thảo dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi), đã phát biểu giải trình, tiếp thu vấn đề đại biểu quan tâm.
Giải trình về phạm vi điều chỉnh của dự án Luật, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho biết, lý do dự án Luật không điều chỉnh hoạt động dầu khí trung và hạ nguồn, bởi chỉ các hoạt động dầu khí thượng nguồn mới có những đặc thù cần thiết phải quy định trong luật chuyên ngành.
Các hoạt động dầu khí trung và hạ nguồn bao gồm vận chuyển và xử lý chế biến dầu khí hiện nay được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, trong quá trình triển khai cơ bản không gặp vướng mắc, không cần quy định trong luật chuyên ngành.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương, riêng đối với trường hợp triển khai các dự án dầu khí theo chuỗi là trường hợp rất đặc thù phải xây dựng một chuỗi công trình đường bộ để phát triển mỏ khai thác sản phẩm dầu khí thượng nguồn, vận chuyển, xử lý chất lượng sản phẩm trước khi thương mại thì được thực hiện theo trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Dầu khí.
Đối với quy định tại khoản 4, Điều 34, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ về thời gian và tiến độ, nâng cao hiệu quả kinh tế, khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư lớn để thực hiện dự án đầu tư thành phần liên quan mật thiết với nhau, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ phối hợp với cơ quan thẩm tra rà soát và bảo đảm phạm vi của dự thảo Luật.
Điều hành phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đánh giá, các ý kiến đều thống nhất về sự cần thiết sửa đổi Luật Dầu khí để thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển ngành Dầu khí, đảm bảo an ninh năng lượng, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, đồng bộ hệ thống pháp luật, tăng cường hiệu lực hiệu quả trong quản lý nhà nước về dầu khí, đẩy mạnh phân cấp, tránh lợi ích cục bộ, loại bỏ rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực dầu khí.
Phó Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến phát biểu để hoàn thiện dự án Luật trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV.
Thông qua Luật Điện ảnh (sửa đổi)
Trong phiên họp chiều, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Điện ảnh (sửa đổi) với 449/467 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,16% tổng số đại biểu Quốc hội.
Luật gồm 8 Chương, 50 Điều quy định về hoạt động điện ảnh; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh; quản lý nhà nước về điện ảnh.
Về nguyên tắc hoạt động điện ảnh, Luật quy định: Xây dựng nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của nhân dân và hội nhập quốc tế; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bảo đảm tính nhân văn, thẩm mỹ và giải trí; tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo trong khuôn khổ của pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh; bảo đảm sự bình đẳng, cạnh tranh công bằng của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh và phát triển công nghiệp điện ảnh...
Luật Điện ảnh (sửa đổi) có hiệu lực ngày 1/1/2023.
Thông qua Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi)
Cũng trong phiên họp chiều, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) với 424/437 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 85,14% tổng số đại biểu Quốc hội.
Luật này quy định về đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, hình thức, tiêu chuẩn, thẩm quyền, trình tự và thủ tục thi đua, khen thưởng. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024.
Mục tiêu của thi đua là nhằm động viên, thu hút, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể, hộ gia đình phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, đổi mới, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mục tiêu của khen thưởng là nhằm khuyến khích, động viên cá nhân, tập thể, hộ gia đình hăng hái thi đua; ghi nhận công lao, thành tích của cá nhân, tập thể, hộ gia đình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng hạ tầng số
Sau biểu quyết, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện.
Tán thành với sự cần thiết ban hành dự án Luật, các đại biểu cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện lần này góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng hạ tầng số, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số, xã hội số; đồng thời bảo đảm thống nhất, đồng bộ với pháp luật hiện hành, khắc phục những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.
Đại biểu Nguyễn Thành Công (Ninh Bình) phát biểu tại phiên họp. |
Nội dung được nhiều đại biểu quan tâm, cho ý kiến tại phiên thảo luận là việc giới hạn tổng độ rộng băng tần được quy hoạch cho hệ thống thông tin di động mặt đất mà một tổ chức, doanh nghiệp được phép sử dụng.
Đại biểu Nguyễn Thành Công (Ninh Bình) cho rằng, một trong những mục tiêu cốt lõi được nêu tại Đại hội XIII của Đảng là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
"Việc giới hạn tổng độ rộng băng tần cho một tổ chức sử dụng liệu có làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường, gây ảnh hưởng đến phát triển thị trường của doanh nghiệp, quyền lợi của người dân trong việc lựa chọn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và sử dụng dịch vụ mạng thông tin di động hay không?", đại biểu băn khoăn.
Theo đại biểu, để đảm bảo công bằng, thúc đẩy tính cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, thay vì quy định giới hạn tổng độ rộng băng tần cho một tổ chức sử dụng, dự thảo Luật cần bổ sung những quy định cụ thể, chi tiết và đầy đủ về tiêu chí, điều kiện trường hợp doanh nghiệp được cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện thông qua ba hình thức cấp phép; nội dung cam kết triển khai mạng viễn thông; các biện pháp quản lý nhà nước đảm bảo được thực hiện cam kết triển khai mạng viễn thông và chế tài xử lý vi phạm hành chính khi doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết.
Trong trường hợp vẫn giữ nguyên quy định theo hướng giới hạn tổng độ rộng băng tần cho một tổ chức sử dụng, dự thảo Luật cần bổ sung quy định cụ thể về nguyên tắc và tiêu chí xác định hạn mức. Ví dụ như xác định trên cơ sở quy mô doanh nghiệp, năng lực đầu tư, vốn đầu tư hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin, mức độ công nghệ đang sở hữu, năng lực quản trị doanh nghiệp nhằm tăng tính minh bạch trong quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, các đại biểu đề nghị rà soát để bảo đảm sự thống nhất với các luật khác, cụ thể hóa tối đa trong dự thảo Luật những nội dung đã được kiểm nghiệm, áp dụng trong thực tiễn; rà soát, quy định thêm nguyên tắc, tiêu chí, thẩm quyền, chế tài xử lý vi phạm trong quản lý, phân bổ, sử dụng các khối băng tần, giới hạn tổng độ rộng băng tần để tránh lãng phí hoặc tích tụ độc quyền tần số không hợp lý.
Các ý kiến đề nghị quy định cụ thể, tách bạch giữa phương thức đấu giá, phương thức thi tuyển và phương thức cấp phép trực tiếp; điều kiện, thẩm quyền quyết định việc áp dụng đối với từng phương thức; làm rõ khái niệm băng tần có giá trị thương mại cao để có căn cứ thực hiện đấu giá; giải pháp để thực hiện việc đấu giá; đối tượng, điều kiện tham gia đấu giá; quy định cụ thể về cấp lại giấy phép sử dụng.
Một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể để bảo đảm quốc phòng, an ninh chủ quyền số quốc gia đối với doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài khi tham gia đấu giá hoặc thi tuyển băng tần; rà soát, nghiên cứu kỹ chính sách sử dụng tần số vô tuyến điện, phân bổ mục đích quốc phòng, an ninh được kết hợp cho mục đích phát triển kinh tế; có cơ chế giám sát, kiểm tra; quy định rõ thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.