Các nước phương Nam có nguyên liệu mà không dùng chất xám và phương tiện khai thác, chế biến, chế tạo ra hàng hóa, vì vậy, trở thành những nước phụ thuộc phương Bắc, làm nhiều ăn ít. Ta sản xuất gạo, nhưng giá bán chưa cao vì kém tiêu chuẩn quốc tế, nhãn hay vải có khi bán quá rẻ do thiếu chế biến hay thiếu phương tiện vận chuyển. Ta hội nhập thị trường thế giới thì tài nguyên là cơ hội, nhưng cũng có thể là mối đe dọa.
| Xuất khẩu quả Việt Nam cho tới nay đã mang đến nhiều lợi tức hơn cả xuất khẩu gạo. |
Thường ta hay nói đến nguyên liệu cổ điển như quặng, kim khí, than và dầu lửa. Nhưng khái niệm tài nguyên còn bao gồm loại thứ hai như nước và nguyên liệu nông nghiệp (nông sản). Những nguồn nước trên phạm vi thế giới đang giảm một cách báo động. Người ta tiên đoán là nếu không phân phối nguồn nước cho hợp lý, có thể sẽ xảy ra chiến tranh địa phương vì nước.
Có nhiều lý do dẫn đến khủng hoảng nước và sự giảm sút nguyên liệu. Hàng năm, thế giới mất đi 12 triệu ha đất trồng trọt do sa mạc hóa, xói mòn, muối hóa, cũng do dân số tăng cần chỗ ở, số lượng nước tiêu thụ tăng nhanh do sự thay đổi lớn trong văn hóa ẩm thực. Ở châu Âu, cách đây vài thập kỷ, thịt, bơ và pho-mat chỉ ăn ngày Chủ nhật, ngày lễ, giờ thì ăn hàng ngày. Thí dụ ở Đức, những năm 1950, người dân ăn mỗi năm độ 26kg thịt, giờ thì 60kg. Cũng con số đó ở Ấn Độ tăng 4 lần từ 1990-2005. Con số ở Trung Quốc là 50kg thịt mỗi năm/người, tăng gấp đôi. Ở ta, không nói đến thời chống Pháp, trong rừng ở chiến khu Việt Bắc, bộ đội ăn cơm độn sắn, thức ăn bằng sắn chế biến, lễ Tết mới có một miếng thịt lợn con con. Suốt thời bao cấp, ở Hà Nội, gia đình cán bộ trung cấp, mỗi người một tháng chỉ được 2-3 lạng thịt. Thế mà mấy chục năm sau Đổi mới, trong khá nhiều nhà ở thành thị trung bình cũng dùng đến nửa lạng thịt một người, mỗi ngày. Tiêu thụ thịt nhiều, khiến nguyên liệu làm ra thịt cũng tăng. Ở phương Tây, để có một kg thịt, cần 7kg rơm cỏ cho loài vật ăn và tốn từ 6.000 - 15.000 lít nước (trong khi đó, sản xuất 1kg ngũ cốc chỉ mất 500-3.000 lít nước).
Chất đốt dùng nổ máy (do xăng dầu hiếm), người ta dùng ngô ở Mỹ, cải dầu (colza) ở châu Âu, mía ở Brazil để chế chất đốt sinh học, khiến cuộc cạnh tranh về nguyên liệu nông nghiệp thêm gay gắt.
Nguyên liệu nước là vấn đề nổi bật. 90% số lượng nước trên thế giới được sử dụng để sản xuất thức ăn và sản phẩm công nghiệp. Những người theo chế độ ăn rau tiêu thụ nước ít hơn người ăn thịt: để có 1kg lúa mỳ, chỉ mất 1.000 lít nước, 1 kg gạo chỉ đòi hỏi 3.000-5.000 lít nước. Sản xuất thịt đòi hỏi nước gấp 5-10 lần. Một tách cà phê: 140 lít nước, 1 cốc bia nhỏ: 75 lít nước. Sản xuất công nghiệp cũng đòi hỏi nhiều nước: 1 quần jean: 12.000 lít nước, 1 chiếc sơ mi: 2.000 lít nước. Như vậy, trong mỗi sản phẩm, không kể lượng nước dùng trực tiếp, còn có khối lượng nước dùng gián tiếp trong các khâu sản xuất.
Những chỉ số về nước tiềm ẩn trong mỗi sản phẩm thể hiện tầm quan trọng của vấn đề khi ta gắn khối lượng nước tiêu thụ không ngừng tăng với các vùng thiếu nước. Thí dụ: Ai Cập dân số gần bằng Việt Nam chỉ sản xuất được nửa số lúa mỳ cần thiết cho dân, do thiếu nước và đất canh tác. Ai Cập phải mua thực phẩm bằng lúa mỳ nước ngoài để bù cho 5 tỷ tấn nước cần để sản xuất đủ lúa mỳ ăn. Như vậy, các quốc gia thiếu nước đã mua nước tiềm ẩn trong thực phẩm của các quốc gia có nhiều nước.
Ở một số nước nhiệt đới nghèo, quả là một nguyên liệu nông phẩm quý, nhưng không sinh lợi được do không thương mại hóa được. Thí dụ ở nước Mali, châu Phi, xoài rất dễ trồng, lại đặc biệt thơm ngon. Trong một thời gian dài, quả không bán được mấy, vì thị trường trong nước chủ yếu là phương tiện giao thông kém nên phải bán rất rẻ, có khi thối trên cây, còn nói gì đến xuất khẩu! Cách đây chục năm, đặc biệt được sự giúp đỡ của tổ chức chính phủ Thụy Sỹ Helvetas, một số hội hợp tác tư nhân đã được thành lập và đẩy mạnh sản xuất thương mại hóa xoài.
Trong đà phát triển này, sáng kiến nông dân rất quan trọng. Bà nông dân Diara, 42 tuổi, sáu con, đã có sáng kiến lập nên hiệp hội hợp tác chế biến xoài khô, ăn và bán quanh năm. Mới đầu dân địa phương chưa quen xoài khô, nhưng do tiếp thị giỏi, xoài khô đã bán được. Năm 2005, hợp tác xã do bà thành lập với một cái máy sấy đã sản xuất 380kg xoài khô, năm 2006 được 500kg.
Nước ta cũng bắt đầu có xí nghiệp sản xuất loại củ, quả khô. Nhưng phải tạo thành phong trào các nông dân tự động xây dựng những hợp tác xã nhỏ, chính quyền giúp đỡ vốn, kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh quốc tế thì mới tung ra thị trường được. Xuất khẩu để xóa đói giảm nghèo!
Ở ta, do nhiều cố gắng cải tiến, việc xuất khẩu quả cho tới nay đã mang đến nhiều lợi tức hơn cả xuất khẩu gạo.