Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon và Đại sứ Nguyễn Phương Nga, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, New York (Mỹ). |
Trong suốt chặng đường lịch sử 70 năm của Ngoại giao Việt Nam, đối ngoại đa phương giữ vai trò rất quan trọng và đã ghi nhiều dấu ấn đậm nét.
Những dấu ấn đậm nét
Ngay sau khi đất nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thiết lập nền móng Ngoại giao Việt Nam hiện đại, đã xác định rõ tầm quan trọng và định hướng hoạt động đa phương của Ngoại giao Việt Nam. Để tranh thủ Liên hợp quốc (LHQ) trong cuộc đấu tranh vì hoà bình và độc lập dân tộc. Cuối năm 1946, Bác đã viết Lời kêu gọi gửi LHQ nêu rõ: "Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của LHQ”, “Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của LHQ những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân".
Trong hai cuộc kháng chiến vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước cùng với việc huy động được nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, đối ngoại đa phương đã góp phần làm nên hai dấu mốc lịch sử là ký kết Hiệp định Geneva 1954 và Hiệp định Paris 1973, góp phần chấm dứt chiến tranh, mang lại hoà bình cho đất nước và đóng góp vào hòa bình, ổn định của khu vực.
Trong thập kỷ 80 và đầu những năm 90, bằng hoạt động ngoại giao khôn khéo, sáng tạo, đấu tranh kiên trì, quyết liệt tại diễn đàn LHQ và trong khuôn khổ các cơ chế đa phương, đối ngoại đa phương đã thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia, đưa nước ta ra khỏi thế bị bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại, bình thường hoá quan hệ với các đối tác quan trọng, từng bước hội nhập quốc tế.
Thực hiện đường lối Đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, những năm qua, đối ngoại đa phương ngày càng trưởng thành cả về lượng và về chất, thể hiện rõ nét qua những điểm sau:
Thứ nhất, chúng ta đã mở rộng và từng bước làm sâu sắc hơn quan hệ với các thể chế đa phương ở mọi cấp độ: khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với EU năm 1990, trở thành thành viên ASEAN năm 1995, thành viên Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) năm 1996 rồi Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, gia nhập WTO năm 2006… Tới nay, Việt Nam đã là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, tổ chức thành công nhiều hội nghị quan trọng của ASEAN, APEC, ASEM, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) và gần nhất là Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU)132. Đối ngoại đa phương đã được triển khai đồng bộ, toàn diện trên tất cả các trụ cột ngoại giao nhà nước, đối ngoại Đảng và ngoại giao nhân dân, ngoại giao nghị viện và trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, hoạt động đa phương tại các diễn đàn quốc tế góp phần thúc đẩy, tăng cường quan hệ song phương với các đối tác. Đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, quan hệ đối tác chiến lược với 14 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, trong đó có tất cả năm nước thường trực Hội đồng Bảo an LHQ.
Thứ ba, tại các diễn đàn đa phương, chúng ta đã khẳng định Việt Nam là một thành viên chủ động, tích cực và đầy trách nhiệm, không chỉ tham gia mà đã chuyển sang chủ động đóng góp xây dựng luật chơi chung bằng việc đưa ra nhiều sáng kiến góp phần vào hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Ở khu vực, chúng ta đã tích cực đóng góp vào củng cố đoàn kết, liên kết nội khối trong ASEAN và tăng cường quan hệ giữa ASEAN với các đối tác, thúc đẩy “văn hóa thực thi” và đang là một trong những nước đi đầu thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN, góp phần nâng cao hình ảnh, uy tín của ASEAN.
Trong các khuôn khổ hợp tác liên khu vực APEC, ASEM, Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS)… chúng ta đã đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến hợp tác thiết thực như ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, an ninh năng lượng, tăng trưởng xanh, lao động và việc làm, kết nối khu vực…
Tại LHQ, chúng ta đã đảm đương tốt cương vị Ủy viên không thường trực HĐBA nhiệm kỳ 2008–2009, tích cực ủng hộ các nỗ lực bảo đảm hoà bình và an ninh quốc tế, giải quyết hòa bình các tranh chấp, cải tổ LHQ… Việt Nam hiện đang là thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ, Uỷ ban Di sản của UNESCO và đã bắt đầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Việt Nam là một trong những nước đi đầu thực hiện thành công mô hình “Thống nhất hành động”. Phát biểu tại Lễ khánh thành Ngôi nhà xanh chung của LHQ tại Việt Nam, Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon nói: “Ngôi nhà xanh chung này của LHQ là biểu tượng mạnh mẽ cho thấy Việt Nam có thể là người tiên phong thực sự của LHQ”.
Thứ tư, đối ngoại đa phương đã góp phần nâng cao uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tích cực chuyển tải đến bạn bè quốc tế hình ảnh một nước Việt Nam yêu chuộng hoà bình, đang phát triển năng động, giàu tiềm năng, tích cực phấn đấu vì hoà bình, tiến bộ xã hội và những giá trị chung của nhân loại.
Phương tiện hữu hiệu
Đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, hội nhập quốc tế sâu rộng giữa lúc thế giới đang biến chuyển hết sức nhanh chóng, tạo ra nhiều thuận lợi, song cũng nhiều thách thức đối với đối ngoại đa phương.
Toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, an ninh và phát triển của mỗi quốc gia gắn chặt với hoà bình và thịnh vượng chung của khu vực và thế giới. Nhiều thách thức mới gay gắt, đan xen phức tạp mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được, đòi hỏi phải có cách tiếp cận đa phương. Các nước đều đẩy mạnh ngoại giao đa phương, sử dụng các thể chế đa phương để thúc đẩy lợi ích của mình. Các thể chế đa phương là môi trường cạnh tranh ảnh hưởng, có lúc đối đầu căng thẳng song về cơ bản vẫn là diễn đàn đối thoại, hợp tác, giúp giảm thiểu nguy cơ chiến tranh, đề xuất giải pháp, cơ chế hợp tác để giải quyết các vấn đề hoà bình, an ninh và phát triển. Tập hợp lực lượng tại các diễn đàn đa phương trở nên rất phức tạp, thay đổi nhanh chóng, linh hoạt trên từng vấn đề và trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trong bối cảnh đó, đối ngoại đa phương đã được xác định là một trong những mũi nhọn để triển khai đường lối đối ngoại của Việt Nam. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị “Đối ngoại đa phương thế kỷ XXI và khuyến nghị chính sách đối ngoại đối với Việt Nam” tháng 8/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: “Đối ngoại đa phương là bộ phận rất quan trọng trong tổng thể chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đối ngoại đa phương là phương tiện hữu hiệu để chúng ta triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hội nhập quốc tế”.
Để thực hiện chủ trương đó, đối ngoại đa phương cần chú trọng những nội dung sau:
Thứ nhất, xuất phát từ lợi ích và khả năng của ta để xác định rõ và triển khai tốt các trọng tâm ưu tiên tại từng diễn đàn quốc tế trong từng giai đoạn chiến lược như: thúc đẩy việc thực hiện Cộng đồng ASEAN, tăng cường đoàn kết, liên kết trong ASEAN; tổ chức tốt Hội nghị cấp cao APEC năm 2017; ứng cử thành công vào Hội đồng Kinh tế xã hội của LHQ (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018 và thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ 2020-2021. Chủ động triển khai thực hiện ở trong nước và phối hợp triển khai ở cấp độ khu vực và quốc tế các mục tiêu phát triển bền vững sẽ được LHQ thông qua tháng 9/2015.
Thứ hai, nắm bắt, hiểu rõ quan tâm, lợi ích của ta và các đối tác, xác định các vấn đề, lĩnh vực mà ta có thể tích cực tham gia, đề xuất và triển khai các sáng kiến thiết thực để thúc đẩy lợi ích của ta đồng thời tham gia vào giải quyết các vấn đề chung của thế giới như hoà bình, an ninh, môi trường, biến đổi khí hậu, công nghệ xanh, liên kết kinh tế khu vực, kết nối, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ… Khai thác, phát huy thế mạnh của các kênh đối ngoại đa phương để thúc đẩy quan hệ song phương với các nước/nhóm nước.
Thứ ba, phát huy vai trò của Việt Nam tại các thể chế, diễn đàn đa phương trong việc bảo vệ và đề cao các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, tham gia xây dựng các nguyên tắc ứng xử, thúc đẩy dân chủ hoá các thể chế đa phương, huy động sự ủng hộ quốc tế, góp phần bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đồng thời góp phần vào hoà bình, ổn định, an ninh và phát triển ở khu vực và thế giới.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan bộ, ngành trong nước với cơ quan đại diện ở nước ngoài, gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại song phương và đa phương để có thể tham gia sâu, thực chất, ngay từ đầu và trong suốt quá trình vận động, thương lượng, xây dựng luật chơi cũng như hoạt động hợp tác quốc tế.
Thứ năm, xây dựng và triển khai chiến lược đào tạo, gây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao đa phương có ngoại ngữ giỏi, có kiến thức sâu rộng, bản lĩnh vững vàng, xông xáo, hoạt bát và có kỹ năng đàm phán, thuyết phục, thích ứng được với tính chất rất phức tạp, đa dạng của hoạt động ngoại giao đa phương.
Giương cao ngọn cờ hoà bình, kiên định mục tiêu chiến lược là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, kiên trì nguyên tắc độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế, đối ngoại đa phương sẽ phát huy truyền thống của 70 năm qua, huy động được nguồn lực quốc tế phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Đại sứ Nguyễn Phương Nga