| Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu kết luận Hội nghị. (Ảnh: Quang Hòa) |
Đến dự và phát biểu kết luận Hội nghị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh, kết quả của Hội nghị sẽ tạo cơ sở quan trọng cho việc xây dựng chính sách tổng thể về đối ngoại đa phương trong thời gian tới.
Kinh nghiệm và bài học đối ngoại đa phương
Tại phiên chuyên đề thứ nhất, dưới sự chủ trì của bà Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, các đại biểu đã tập trung thảo luận về: Chính sách và kinh nghiệm đối ngoại đa phương của Singapore, ASEAN và các nước khác; Thành tựu và bài học đối ngoại đa phương Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Các diễn giả đều chung nhận định, tình hình thế giới đang trở thành đa cực về sức mạnh và ảnh hưởng, do các cường quốc lâu năm muốn dùng thể chế đa phương để duy trì vị trí của mình, các cường quốc mới nổi lại muốn thay đổi các thể chế cũ, xây dựng các thể chế mới để khẳng định vị thế của mình. Các nước nhỏ và vừa thì muốn thông qua các thể chế này để thúc đẩy những vấn đề mình quan tâm, tạo thêm nguồn lực cho việc triển khai chính sách đối nội, đối ngoại.
Tại phiên này, các đại biểu đã nghe ông George Yeo, Chủ tịch Tập đoàn Kerry Logistics, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Singapore đã trao đổi về kinh nghiệm triển khai đối ngoại đa phương của Singapore và ASEAN. Theo đó, ông George Yeo đã khái quát quá trình hình thành và phát triển của ngoại giao đa phương của Singapore và ASEAN, trong đó nhấn mạnh đến việc hợp tác ASEAN với các đối tác: Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Mỹ, Nga… và sự cân bằng nhất định trong quan hệ giữa các đối tác này.
Về đối ngoại đa phương của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới, Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc cho biết, qua hai giai đoạn chính, ngoại giao đa phương của Việt Nam đã có được nhiều kết quả. Giai đoạn từ 1986-2000, Việt Nam đã khai thông quan hệ với Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng phát triển châu Á; trở thành thành viên của ASEAN, ký Hiệp định khung Việt Nam - EU, Diễn đàn hợp tác Á- Âu, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương APEC…. Tại Liên hợp quốc, lần đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên của một cơ quan chính của tổ chức này là Hội đồng kinh tế và xã hội, được bầu vào Ủy hội nhân quyền, các cơ quan lãnh đạo của nhiều tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc như: Quỹ Nhi đồng LHQ, Liên minh viễn thông quốc tế, Tổ chức y tế thế giới.
Giai đoạn từ 2000 - đến nay, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, trúng cử làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, tiếp tục được bầu vào các cơ quan lãnh đạo của một số quỹ/chương trình, tổ chức chuyên môn của LHQ. Nước ta tổ chức thành công các Hội nghị cấp cao ASEM 5, APEC và ASEAN 16. Số lượng người Việt Nam làm việc tại các tổ chức quốc tế gia tăng: Việt Nam đảm nhiệm cương vị Tổng Thư ký ASEAN, Chủ tịch Hội đồng thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA. Tại Khóa 68 Đại hội đồng LHQ, Việt Nam được bầu vào Hội đồng nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016…
Ngoài ra, Hội nghị cũng nghe tham luận của nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển về Bài học của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; tham luận của ông Vũ Xuân Hồng, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam về Đối ngoại nhân dân trong triển khai đối ngoại đa phương Việt Nam thời kỳ đổi mới; ông Ngô Đức Mạnh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội với Đẩy mạnh đối ngoại Nghị viện đa phương và ông Bùi Thế Giang, Vụ trưởng Vụ Tây Bắc Âu - Bắc Mỹ, Ban Đối ngoại Trung ương về Quan hệ Đảng trong triển khai đối ngoại đa phương.
| Toàn cảnh Hội nghị. (Ảnh: Quang Hòa). |
Trong phiên chuyên đề này, các đại biểu đã tập trung thảo luận những vấn đề đối với đa phương Việt Nam và ASEAN, duy trì vai trò trung tâm của Cộng đồng ASEAN; Đổi mới tư duy, hình thành cách tiếp cận mới, xác định các ưu tiên của đa phương Việt Nam.
Mở đầu phiên, ông Pascal Lamy đã nhấn mạnh đến việc nâng tầm và đóng góp của Việt Nam trong các cơ chế đa phương. Ông Pascal Lamy khuyến nghị, việc đầu tiên Việt Nam có thể làm là tăng cường hơn nữa hiệu quả của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển hơn nữa sự phát triển kinh tế - xã hội. “Bởi lẽ điều đó sẽ có tính quyết định”, ông Pascal Lamy nói. Hiện dân số Việt Nam đứng 14-15 thế giới và năm 2050, Việt Nam sẽ có lượng dân số lớn đứng thứ 11 thế giới. Vậy Việt Nam phải làm gì để có thể có vị thế trên trường quốc tế?
Cho rằng, thời gian qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong đối ngoại đa phương, ông Pascal Lamy đề nghị các chính sách trong nước của Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng là các biện pháp thúc đẩy đối ngoại đa phương. Ngoài ra, Việt Nam có thể vận dụng các kinh nghiệm của các nước và việc tuân thủ các chính sách đa phương cũng là yếu tố quan trọng để hội nhập sâu hơn vào quốc tế. Bên cạnh đó, các thực thể đối ngoại đa phương còn là các nhà du lịch, người dân… cũng góp phần thúc đẩy ngoại giao đa phương.
Ông Pascal Lamy đưa ra lộ trình ba bước mà đối ngoại đa phương Việt Nam có thể tiến hành. Đầu tiên, Việt Nam cần xác định các yếu tố định hình có thể ảnh hưởng đến tiến trình ngoại giao đa phương, các cơ quan chính phủ có thể tham khảo ý kiến của người dân, giới doanh nghiệp… về các yếu tố định hình này. Bước tiếp theo là tiến hành thảo luận xem trong 10-20 năm tới, Việt Nam cần thực hiện công việc gì và đề ra các mục tiêu quan trọng nhất. Bước cuối cùng, Việt Nam cần phải tiến hành thay đổi, cải cách các chính sách có liên quan để thực hiện được các mục tiêu đã nêu trên.
Các đại biểu cũng nghe tham luận của ông George Yeo về “Tầm nhìn ASEAN sau năm 2015 và vai trò, đóng góp của Việt Nam”, trong đó, ông nhấn mạnh cặp quan hệ Trung Quốc - Mỹ sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ASEAN. Ông George Yeo bày tỏ tin tưởng, người Việt Nam là người làm việc chăm chỉ: đi học thêm, làm việc suốt ngày… nếu có thể chế và với các chính sách mạnh mẽ, Việt Nam sẽ tiến lên rất nhanh và có sự ảnh hưởng nhất định đến ASEAN.
Cũng tại phiên thảo luận này, các đại biểu đã nghe tham luận của ông Vũ Khoan, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ về những yêu cầu đối với đối ngoại đa phương. Nguyên Phó Thủ tướng cho rằng, Việt Nam cần phải chuyển đổi phát triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, Việt Nam cũng tham gia nhiều các tổ chức quốc tế và Việt Nam cũng đang chịu ảnh hưởng của vấn đề an ninh, chủ quyền. “Vậy chúng ta cần hoạt động sao đó cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn”, ông Vũ Khoan nói. Về chính trị, Việt Nam cần góp phần duy trì hòa bình, ổn định khu vực. Về vấn đề xã hội cần tiếp tục tiến trình xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường.
Trong cách thực hiện, nguyên Phó Thủ tướng đề nghị, Việt Nam nên hướng sự quan tâm vào ASEAN và đẩy mạnh hoạt động của Việt Nam trong tổ chức này. Đồng thời Việt Nam cũng cần đẩy mạnh hoạt động tại Liên hợp quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần quan tâm đến các tổ chức quốc tế khác và có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu tham gia các hoạt động đối ngoại đa phương.
Hội nghị cũng nghe tham luận “Tư duy mới trong hợp tác đa phương về các vấn đề xã hội” của ông Nguyễn Thanh Hòa, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội”; tham luận “Khuyến nghị lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đến năm 2030” của ông Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương; tham luận “Tăng cường đóng góp của Việt Nam trong các định chế hợp tác kinh tế, tài chính quốc tế” của ông Habib Rab, Chuyên gia Kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam…
Đẩy mạnh đối ngoại đa phương trong thời gian tới
Phát biểu kết luận Hội nghị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cho rằng, trong thời gian 5 - 10 năm tới có ý nghĩa then chốt đối với công cuộc đổi mới, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng bền vững, nâng cao vị thế đất nước. Đây cũng là thời điểm Việt Nam đảm nhận nhiều trọng trách và hoàn tất nhiều cam kết quốc tế. Do đó, đã đến lúc Việt Nam cần triển khai hoạt động đối ngoại với tư duy mới, cách tiếp cận mới và tư thế mới. Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ban, ngành phối hợp chặt chẽ triển khai hoạt động đối ngoại đa phương thời gian tới.
Một là, chuyển mạnh từ tư duy “gia nhập và tham gia” sang tư duy “chủ động đóng góp, khởi xướng và tích cực tham gia định hình”, tăng cường cách tiếp cận đa ngành, chú trọng nội hàm phát triển bền vững. Các bộ, ban, ngành cần chủ động đóng góp vào các quan tâm chung, đẩy mạnh đề xuất sáng kiến, ý tưởng. Trong đó coi trọng xây dựng Cộng đồng ASEAN, hợp tác ASEAN lục địa, các cơ chế tiểu vùng sông Mê Công. Nâng cao hiệu quả tham gia Liên hợp quốc, WTO, APEC, ASEM và các khuôn khổ hợp tác khác. Cân nhắc tham gia, đồng khởi xướng các cơ chế hợp tác mới.
Hai là, khẩn trương đề xuất định hướng tổng thể và dài hạn của đối ngoại đa phương Việt Nam trong 10 - 20 năm tới. Đây là điều kiện tiên quyết nâng tầm đối ngoại đa phương đáp ứng các yêu cầu mới của hội nhập quốc tế toàn diện.
Ba là, trong giai đoạn từ nay đến 2020, đối ngoại giao đa phương của ta cần tập trung vào một số trọng tâm sau: Đảm nhận thành công các trọng trách và đăng cai tổ chức các hoạt động đa phương lớn, đặc biệt là đăng cai Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới năm 2015; đảm nhận vai trò thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 và Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc ECOSOC nhiệm kỳ 2016 - 2018; đăng cai Hội nghị Cấp cao APEC năm 2017; đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, ứng cử vào Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021….
Hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời hạn vào 2015 - 2020, nhất là hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN và Tầm nhìn ASEAN sau 2015, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN; các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), tham gia xây dựng các Mục tiêu phát triển (SDGs) của Liên hợp quốc sau năm 2015, hoàn tất các cam kết gia nhập WTO vào năm 2018 cùng các hiệp định thương mại tự do nhiều bên.
Đẩy mạnh nội hàm phát triển và ứng phó với các thách thức toàn cầu trong các hoạt động đa phương, nhằm thiết thực phục vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Trong đó, tiếp tục nhấn hợp tác kết nối khu vực, thu hẹp khoảng cách phát triển, đối tác phát triển, tăng trưởng bền vững, giảm nghèo, bình đẳng giới, an ninh nguồn nước, an ninh an toàn hàng hải, an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… là những lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu tranh thủ hợp tác quốc tế và có khả năng đóng góp.
Bốn là, cần cải tiến, đổi mới cơ chế thông tin, phối hợp liên ngành và giữa các bộ, ban, ngành với địa phương, doanh nghiệp, phù hợp với chuyển biến của tình hình quốc tế và đáp nhu cầu mới của đất nước. Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu vừa được thành lập tháng 4 tạo nền tảng quan trọng cho việc đổi mới cơ chế phối hợp liên ngành và tư duy triển khai trong đối ngoại đa phương.
Phó Thủ tướng đề nghị, cần phân định rõ hơn trách nhiệm của các bộ ngành, cơ quan liên quan, phân cấp thẩm quyền quyết định, đầu mối phụ trách các vấn đề đa phương để bảo đảm hiệu quả, tính linh hoạt và tốc độ xử lý những vấn đề toàn cầu mới (tăng trưởng xanh, kinh tế biển, an ninh an toàn hàng hải…), các cơ chế mới (WEF, CIVETS, 3G…). Việt Nam cũng cần hình thành cơ chế xử lý vấn đề, tình huống cấp bách của khu vực và toàn cầu. Chúng ta cần coi trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức về đối ngoại đa phương, từ đó đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và tăng cường năng lực của các địa phương và người dân tận dụng cơ hội.
Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh đến yếu tố đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đa phương theo hướng chuyên nghiệp. Đây là vấn đề rất cấp bách để nước ta triển khai thành công hoạt động đa phương. Ngày nay, cán bộ làm công tác đa phương phải đáp ứng những đòi hỏi cao hơn không chỉ về tốc độ, mức độ linh hoạt, mà cả khả năng chủ trì và điều hành, năng lực dẫn dắt với những kỹ năng mới. Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế sớm xây dựng và triển khai chương trình đào tạo cán bộ đa phương Việt Nam.
Tuấn Anh
Phát biểu kết luận của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh tại Hội nghị Đối ngoại đa phương