Báo cáo trung tâm của Bộ Ngoại giao do Thứ trưởng Lê Thị Thu Hằng trình bày tại Hội nghị khẳng định, trải qua hơn 20 năm triển khai, Nghị quyết 36 là một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng ta đã đem lại những kết quả to lớn vượt bậc.
| Bộ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung (thứ ba, từ trái sang) chụp ảnh cùng kiều bào tham dự Hội nghị. (Ảnh: Thành Long) |
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng việc phát huy nguồn lực kiều bào vẫn chưa tương xứng với tiềm năng to lớn. Một số chính sách dù đã thông thoáng nhưng quá trình thực hiện còn chậm, chưa theo kịp sự biến đổi nhanh chóng của thực tiễn.
Yêu cầu của bối cảnh mới
Trong bối cảnh đất nước chuẩn bị bước vào Đại hội XIV mở ra kỷ nguyên phát triển mới, yêu cầu về sự đóng góp trí tuệ, đổi mới sáng tạo từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài càng trở nên cấp thiết.
Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung cùng sự tham gia đóng góp tích cực của các ban, bộ, ngành, địa phương và bà con NVNONN, quá trình tổng kết được Bộ Ngoại giao tiến hành thông qua nhiều hình thức đa dạng, linh hoạt: Tổ chức hàng chục hội nghị, hội thảo, tọa đàm chuyên đề ở trong và ngoài nước; lấy ý kiến rộng rãi của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức nhân dân và đoàn thể chính trị - xã hội, với hơn 200 báo cáo tổng kết, gần 300 đề xuất, kiến nghị; 98 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã tích cực thu thập ý kiến của đồng bào ta ở nước ngoài; lấy ý kiến của khoảng 700 hội đoàn, mạng lưới trí thức, doanh nhân, sinh viên, các Câu lạc bộ Trường Sa… của người Việt Nam ở nước ngoài; lấy ý kiến trực tiếp của bà con trong các dịp về nước dự các sự kiện ở trong nước (như A80, A50, các lớp tập huấn dành cho lãnh đạo hội đoàn NVNONN, giáo viên tiếng Việt…); tổng hợp, phân tích gần 2.300 ý kiến, đề xuất, kiến nghị qua đợt lấy ý kiến của người Việt Nam ở nước ngoài đối với dự thảo các văn kiện Đại hội XIV.
| Thứ trưởng Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng trình bày báo cáo trung tâm tại Hội nghị. (Ảnh: Dương Tiêu) |
Theo Thứ trưởng Lê Thị Thu Hằng, thông qua quá trình tổng kết, nhiều kết quả, bài học kinh nghiệm quan trọng đã được rút ra. Đồng thời cũng bộc lộ rõ những vấn đề mới, những yêu cầu mới của thực tiễn trong bối cảnh tình hình thế giới, đất nước và cộng đồng NVNONN đã có những chuyển biến sâu sắc so với thời điểm ban hành Nghị quyết 36 từ hơn 20 năm trước.
Trên cơ sở các ý kiến đóng góp trong quá trình tổng kết Nghị quyết 36, Bộ Ngoại giao đã tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Hội nghị một số đề xuất: Tiếp tục rà soát, hoàn thiện đồng bộ các quy định, chính sách pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi hơn cho NVNONN; tạo đột phá trong công tác phát huy nguồn lực của NVNONN, nhất là về khoa học, công nghệ phục vụ phát triển đất nước; tạo đột phá trong công tác đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, tiến tới xóa bỏ mặc cảm, định kiến lịch sử; đẩy mạnh công tác văn hóa, giáo dục, giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếng Việt; đổi mới trong phương thức vận động, thông tin, tuyên truyền đối với người Việt Nam ở nước ngoài; tăng cường công tác chăm lo, hỗ trợ cộng đồng NVNONN.
Các giải pháp trọng tâm về khoa học và công nghệ
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy nhấn mạnh, việc phát huy nguồn lực chuyên gia, trí thức NVNONN đóng góp cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang được đặt trong khuôn khổ thể chế ngày càng hoàn thiện, bám sát tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.
| Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy phát biểu tham luận tại Hội nghị. (Ảnh: Thành Long) |
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách quan trọng nhằm thu hút, phát triển và trọng dụng nhân tài, trong đó có đội ngũ trí thức NVNONN.
Nổi bật là Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025 cùng các nghị định hướng dẫn về cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học- công nghệ, chính sách thu hút chuyên gia, tổng công trình sư, nhân tài khoa học trẻ; cho phép áp dụng cơ chế đãi ngộ linh hoạt, kể cả vượt khung lương, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường làm việc và quyền sở hữu, khai thác kết quả nghiên cứu.
Bên cạnh đó, Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 và Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi đã tạo nền tảng pháp lý cho phát triển nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, dữ liệu lớn, tài sản số, năng lượng mới; đồng thời khuyến khích sự tham gia của NVNONN và chuyên gia quốc tế.
Thông qua các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia, Việt Nam đã kết nối, thu hút nhiều chuyên gia, nhà khoa học kiều bào tham gia các nhiệm vụ trọng điểm; triển khai những mô hình hợp tác mới như chương trình tìm kiếm lỗ hổng bảo mật cho các nền tảng chuyển đổi số quốc gia; đồng thời đưa vào vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu VNCONNECT về chuyên gia trí tuệ nhân tạo người Việt Nam trên toàn cầu.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy cũng thẳng thắn chỉ rõ, việc phát huy nguồn lực trí thức người Việt Nam ở nước ngoài vẫn chưa tạo được đột phá tương xứng với tiềm năng, do hoạt động thu hút còn phân tán, thiếu đầu mối điều phối thống nhất; cơ sở dữ liệu chuyên gia chưa liên thông; cơ chế hợp tác còn thiếu linh hoạt.
Từ đây, Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất các giải pháp trọng tâm, trong đó chuyển từ thu hút chung sang “đặt hàng” theo các bài toán lớn quốc gia; xây dựng mạng lưới, cơ sở dữ liệu chuyên gia liên thông; đa dạng hóa hình thức tham gia của trí thức kiều bào; phát huy vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong kết nối nhân tài và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Khẳng định phát huy nguồn lực trí thức NVNONN là trụ cột trong chiến lược phát triển quốc gia, Thứ trưởng cho rằng, nếu Nghị quyết 36 là nền tảng tư tưởng thì Nghị quyết 57 chính là lời hiệu triệu hành động, nhằm biến tiềm năng to lớn của kiều bào thành động lực phát triển thực chất cho đất nước.
Vai trò của tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc
Về công tác hỗ trợ cộng đồng NVNONN trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, Thứ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Y Thông cho biết, thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, Chỉ thị 45-CT/TW và Kết luận 12-KL/TW của Bộ Chính trị, thời gian qua, Ban Tôn giáo Chính phủ đã phối hợp với các bộ, ngành và tổ chức tôn giáo trong nước triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm hỗ trợ, hướng dẫn sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cho kiều bào.
| Thứ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Y Thông phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Thành Long) |
Theo Thứ trưởng, các tổ chức tôn giáo trong nước đã tích cực đồng hành cùng cộng đồng NVNONN. Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức nhiều chuyến thăm, cử tăng ni hướng dẫn sinh hoạt tại các cơ sở thờ tự ở nước ngoài, thành lập hội Phật tử và ban điều phối tại nhiều quốc gia, tổ chức hoằng pháp nhân các dịp lễ lớn.
Giáo hội Công giáo Việt Nam, các Hội thánh Tin lành thường xuyên cử chức sắc ra nước ngoài phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Hội thánh Cao Đài Tây Ninh và một số tổ chức tôn giáo khác cũng đã thành lập ban đại diện, phong chức cho chức sắc ở nước ngoài, góp phần duy trì sinh hoạt tôn giáo ổn định trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, Bộ Dân tộc và Tôn giáo phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Ngoại giao tổ chức các cuộc gặp mặt, hội nghị kiều bào nhằm thông tin về tình hình kinh tế – xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo trong nước; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, tăng cường gắn kết của kiều bào với quê hương.
Bộ cũng triển khai Đề án hỗ trợ sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng NVNONN giai đoạn 2022–2026, coi hoạt động tôn giáo là cầu nối đoàn kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phòng ngừa việc lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Y Thông cũng chỉ rõ một số khó khăn, như nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của kiều bào ngày càng cao trong khi thiếu chức sắc người Việt, cơ sở thờ tự và gặp rào cản pháp lý tại nước sở tại; sinh hoạt tôn giáo ở một số nơi còn tự phát; nguy cơ bị lợi dụng tôn giáo để kích động, chia rẽ cộng đồng.
Bộ Dân tộc và Tôn giáo đề xuất tăng cường hỗ trợ xây dựng trung tâm văn hóa, cơ sở tín ngưỡng ở nước ngoài; đổi mới công tác tuyên truyền chính sách tôn giáo; đa dạng hóa hình thức vận động, xây dựng lực lượng cốt cán; qua đó phát huy vai trò của tôn giáo trong củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và hướng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Sự đồng hành tích cực của cơ quan đại diện
Theo Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Phạm Quang Hiệu, Nhật Bản là quốc gia phát triển, có thế mạnh trong hầu hết 11 nhóm công nghệ chiến lược mà Chính phủ Việt Nam xác định.
| Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Phạm Quang Hiệu trình bày tham luận qua trực tuyến. (Ảnh: Thành Long) |
Trong bối cảnh đó, cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản được xác định là nguồn lực quan trọng góp phần thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới dựa trên tri thức, công nghệ cao, nhân lực chất lượng và hội nhập sâu.
Để phát huy tối đa sức mạnh của cộng đồng đông đảo người Việt Nam tại Nhật Bản, Đại sứ quán đã và đang tập trung triển khai ba nhiệm vụ trọng tâm.
Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức tập hợp, đoàn kết cộng đồng, củng cố và phát triển các hội đoàn người Việt. Từ số ít hội đoàn ban đầu, đến nay cộng đồng đã hình thành hơn 60 hội đoàn, trong đó nổi bật là các hội chuyên ngành như Hội Trí thức Việt Nam tại Nhật Bản, Hội Giao lưu học thuật, Hội chuyên gia Việt Nam- Nhật Bản, Hiệp hội Chuyển đổi số Việt Nam-Nhật Bản, qua đó phát huy năng lực đổi mới sáng tạo của cá nhân và doanh nghiệp.
Thứ hai, quán triệt phương châm “lấy con người làm trung tâm”, coi cộng đồng vừa là chủ thể tham gia tổ chức triển khai, vừa là đối tượng thụ hưởng các chính sách; thường xuyên thông tin, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là các chính sách lớn về phát triển khoa học-công nghệ.
Thứ ba, phát huy vai trò nòng cốt, tiên phong của đội ngũ trí thức, chuyên gia người Việt Nam tại Nhật Bản trong thúc đẩy giao lưu, hợp tác khoa học-công nghệ, nhất là trong các lĩnh vực chiến lược như chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn và công nghệ cao.
Đại sứ quán đã tích cực hỗ trợ kết nối các trí thức, nhà khoa học, doanh nghiệp Việt Nam tại Nhật Bản với các cơ quan, doanh nghiệp hai nước; tổ chức nhiều hội thảo, sự kiện chuyên sâu; xây dựng mạng lưới các nhà khoa học Việt Nam tại Nhật Bản, thúc đẩy mô hình liên kết “nhà khoa học – viện nghiên cứu – doanh nghiệp”, đồng thời tăng cường hợp tác đào tạo, nghiên cứu, trước mắt hướng tới đào tạo hàng trăm tiến sĩ và hàng nghìn kỹ sư trong lĩnh vực bán dẫn cho Việt Nam.
Đại sứ Phạm Quang Hiệu nhấn mạnh, thời gian tới, Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản sẽ tiếp tục chủ động triển khai các hoạt động linh hoạt, đa dạng, tăng cường kết nối với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong nước, qua đó phát huy hiệu quả nguồn lực trí thức, chuyên gia, lao động trình độ cao người Việt tại Nhật Bản, đóng góp thiết thực cho sự phát triển của đất nước và quan hệ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản.
| Luật sư Trần Bá Phúc – Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Doanh nhân Việt Nam tại Australia, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Thành Long) |
Tinh thần trách nhiệm của kiều bào
Thay mặt kiều bào phát biểu tại Hội nghị, Luật sư Trần Bá Phúc – Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Doanh nhân Việt Nam tại Australia, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, đánh giá Nghị quyết 36-NQ/TW của Đảng về công tác đối với NVNONN thể hiện tầm nhìn chiến lược, sâu sắc và đậm tính nhân văn, không chỉ ở việc huy động nguồn lực kiều bào cho phát triển đất nước, mà còn ở cách tiếp cận hòa hợp, bao dung, hướng tới tương lai.
Theo ông Trần Bá Phúc, trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thời cơ và thách thức đan xen, cộng đồng NVNONN, đặc biệt là đội ngũ trí thức và doanh nhân kiều bào, mong muốn các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước sớm được cụ thể hóa bằng những hành động thực chất, bảo đảm “lời nói đi đôi với việc làm”.
Chính hiệu quả triển khai trên thực tế sẽ là thước đo thuyết phục nhất để củng cố niềm tin của kiều bào, biến các nghị quyết đúng đắn thành động lực phát triển cụ thể cho đất nước.
Bày tỏ sự phấn khởi và hưởng ứng chủ trương mời gọi kiều bào cùng tham gia “kiến tạo” sự phát triển của đất nước, ông Trần Bá Phúc cho rằng, kiều bào mong muốn được tham gia một cách thực chất và hiệu quả hơn, không chỉ trong khâu triển khai mà ngay từ quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách và pháp luật.
Việc NVNONN đã có đại diện tham gia Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bước tiến quan trọng, song cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn vai trò này trong công tác lập pháp, phản biện chính sách và giám sát thực thi.
Ông Trần Bá Phúc cũng nhấn mạnh nguyện vọng của kiều bào về việc tăng cường các chương trình gìn giữ, lan tỏa văn hóa và bản sắc Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là hỗ trợ dạy và học tiếng Việt, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, kết nối thế hệ trẻ kiều bào với cội nguồn. Đây không chỉ là nhiệm vụ văn hóa – xã hội, mà còn là nền tảng lâu dài để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa.
| Đại biểu tham dự Hội nghị chụp ảnh lưu niệm. (Ảnh: Thành Long) |
Khẳng định tinh thần trách nhiệm của cộng đồng NVNONN, ông Trần Bá Phúc nhấn mạnh, với lợi thế về tri thức, công nghệ, kinh nghiệm và mạng lưới quốc tế, kiều bào sẽ tiếp tục dồn tâm huyết, trí tuệ để đóng góp vào những lĩnh vực mang tính đột phá của đất nước.
“Mỗi người Việt Nam dù ở bất kỳ đâu cũng nguyện là một ‘viên gạch hồng’ góp phần xây dựng tầm vóc Việt Nam trên trường quốc tế; dù đi đâu, ở đâu, trái tim Việt Nam không ai có thể lấy ra khỏi lồng ngực của mình”, ông xúc động chia sẻ.