📞

Dự án của tình hữu nghị Việt - Lào

08:14 | 10/06/2016
Đã từ lâu, lãnh thổ và đường biên giới trở thành một trong những điều thiêng liêng nhất đối với mỗi quốc gia dân tộc. việc duy trì một đường biên giới ổn định, hữu nghị và hợp tác là một trong những ưu tiên cao của các quốc gia.

Quyết tâm từ ngày đầu

Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề biên giới và lãnh thổ, với mong muốn cùng nước bạn Lào xây dựng một đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển, góp phần vào việc tăng cường và củng cố tình đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, ngay sau thắng lợi của công cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước của nhân dân hai nước năm 1975, Việt Nam và Lào đã bắt tay ngay vào giải quyết vấn đề biên giới.

Quyết tâm cùng nhau giải quyết vấn đề biên giới dứt khoát, nhanh gọn, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế là một trong những ưu tiên mà Bộ Chính trị và Chính phủ hai nước đề ra tại cuộc họp thường niên ngày 10/02/1976. Hai bên nhất trí “lấy đường biên giới trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Pháp (bản đồ Bonne của Sở Địa dư Đông Dương, in năm 1945 khi hai nước tuyên bố độc lập) làm căn cứ chính. Nơi nào không có bản đồ của Pháp in năm 1945 thì dùng bản đồ của Pháp “in trước hoặc sau một vài năm” làm căn cứ cho việc giải quyết.

Vận chuyển cột mốc tại vùng biên giới hai tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) - Sê Kông (Lào) tháng 9/2012.

Trên cơ sở nguyên tắc này, hai bên đã đàm phán thương lượng và ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Lào ngày 18/7/1977. Sau khi Hiệp ước có hiệu lực, trong giai đoạn 1978 - 1987, hai nước đã phối hợp tiến hành công tác phân giới cắm mốc trên thực địa. Kết quả là, 214 cột mốc trên toàn tuyến biên giới đã được cắm tại 199 vị trí và hai bên ký Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc biên giới Việt Nam - Lào ký ngày 24/01/1986.             

Tuy nhiên, một thực tế là đường biên giới giữa 2 nước dài trên 2.300 km, chạy qua 10 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Lào nhưng chỉ có hơn 214 cột mốc được cắm là quá thưa, đặc biệt có những đoạn biên giới gần 40km mới có cột mốc. Hơn nữa, các cột mốc được xây dựng trong thời kỳ hai nước còn nhiều khó khăn nên chất lượng cột mốc không cao. Bên cạnh đó, do địa hình và khí hậu vùng biên giới hai nước khá khắc nghiệt đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cột mốc. Để hoàn thiện chất lượng đường biên giới, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý biên giới hai nước trong tình hình mới, từ năm 2003, hai bên đã tiến hành thảo luận việc xây dựng Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào (Dự án).

Dự án này nhằm giải quyết ba nhiệm vụ chính: tăng dày hệ thống mốc quốc giới ở những vị trí cần thiết để làm rõ đường biên giới; hoàn thiện hồ sơ pháp lý về đường biên giới Việt Nam - Lào (lập lại bộ hồ sơ cắm mốc và Nghị định thư phân giới cắm mốc phù hợp với số liệu đo đạc tại thực địa và thể hiện lên bộ Bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào tỷ lệ 1/50.000 do hai nước thành lập năm 2003); và tôn tạo các mốc hiện có và mốc tại cửa khẩu biên giới để đảm bảo kiên cố, vững chắc và khang trang.

Nỗ lực vượt khó khăn

Sau 5 năm chuẩn bị mọi mặt, ngày 5/9/2008, Việt Nam và Lào đã chính thức khởi động công tác tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới Việt Nam - Lào với Lễ khánh thành cột mốc đôi 605 tại cặp cửa khẩu quốc tế Lao Bảo (Quảng Trị) - Đen Sa Vẳn (Savannakhet). Từ tháng 9/2008-7/2013, hai bên đã hoàn thành công tác cắm mốc trên thực địa theo đúng kế hoạch đề ra.

Tiếp đó, từ tháng 7/2013-12/2014, hai bên phối hợp và xác định thêm 139 cọc dấu tại 86 vị trí đường biên giới, nâng tổng số mốc và cọc dấu trên toàn tuyến lên 905 vị trí, tương ứng với 1.002 mốc và cọc dấu trên toàn bộ đường biên giới giữa hai nước, tăng 4,5 lần so trước đây. Cụ thể, hai bên đã xây dựng được 834 cột mốc tại 792 vị trí  và cắm 168 cọc dấu tại 113 vị trí trên đường biên giới, trong đó có 19 mốc đại, 204 mốc trung và 611 mốc tiểu.

Lễ chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc biên giới hai nước trên thực địa và khánh thành mốc đại số 460 tại cửa khẩu Thanh Thủy (Nghệ An) - Nam On (Bolikhamsai - Lào), tháng 7/2013.

Để hoàn thành dự án này, trên thực địa, hai bên đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ. Thứ nhất, khu vực biên giới Việt Nam - Lào có địa hình hết sức hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, mưa lũ thất thường làm sụt lở đất, địa hình bị chia cắt. Việc vận chuyển cột mốc bảo đảm nguyên vẹn cũng như đưa vật tư lên đường biên giới là một trở ngại lớn, các lực lượng cắm mốc phải thực hiện hơn 8.000 lần tiếp cận vị trí mốc, phải làm hàng ngàn km đường công vụ để vận chuyển hơn 5.000 tấn nguyên vật liệu, san ủi, đào đắp hàng chục nghìn mét khối đất đá phục vụ thi công, xây dựng mốc. Trong một số đợt công tác liên ngành đơn phương và song phương, các thành viên đoàn phải đi bộ băng rừng, trèo đèo, lội suối hàng chục, thậm chí cả trăm km mới tiếp cận được vị trí mốc. Ban ngày phải đi nhanh để đến vị trí mốc, chiều đến càng phải đi nhanh hơn để tìm chỗ cắm lều lán nghỉ qua đêm. Có một khó khăn thường trực là ở trong rừng thường không có nước, nếu không gặp suối là không có nước uống, nấu ăn, nên nhiều khi các thành viên trong đội cắm mốc phải chặt cây nứa non để lấy chút nước uống cho đỡ cơn khát. Vận chuyển mốc và vật liệu, xây dựng mốc là lúc thử thách ý chí và sức người. Có mốc ở đỉnh núi, độ dốc hơn 50 độ, cách nơi tập kết vật liệu 4-5 km phải mất cả tuần mới tới được. Thêm vào đó, cột mốc được đưa vào xây dựng tại vị trí mốc đòi hỏi phải nguyên vẹn, không bị sứt mẻ trong khi địa hình đi lại vô vàn gian khó, việc vận chuyển chủ yếu bằng mang vác thủ công. Đây là công việc vô cùng khó khăn, để bảo vệ nguyên vẹn cột mốc, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ và dân công phải hết sức khéo léo, cẩn trọng, tỷ mỉ và rất quyết tâm mới vận chuyển được thân mốc có trọng lượng hàng tạ đến gần 1 tấn tới vị trí mốc (mốc tiểu nặng 250kg, mốc trung nặng 480kg, mốc đại nặng gần 1.000kg).

Thứ hai, hầu hết các địa bàn triển khai công tác cắm mốc là vùng sâu, vùng xa, chưa có đường giao thông, dân cư thưa thớt, kinh tế xã hội chậm phát triển nên rất khó huy động phương tiện, trang bị kỹ thuật và dân công.

Thứ ba, dọc tuyến biên giới, trong lòng đất, khe núi, đáy sông còn nhiều bom mìn và vật nổ do chiến tranh để lại có thể phát nổ bất kỳ lúc nào. Lực lượng công binh, bộ đội biên phòng phải tiến hành rà phá bom, mìn để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công tác cắm mốc trên thực địa.

Đường biên giới Việt Nam – Lào có chiều dài hơn 2.337,459 km. điểm khởi đầu là giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam – Lào – Trung Quốc (tiếp giáp giữa các tỉnh Điện Biên – Phông Xa Lỳ - Vân Nam), điểm kết thúc là giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia (tiếp giáp giữa các tỉnh Kon Tum – Áttapư – Ratanakiri). Đường biên giới này đi qua địa giới hành chính 10 tỉnh của Việt Nam, tiếp giáp với 10 tỉnh của Lào. Hệ thống mốc quốc giới gồm 1.002 mốc và cọc dấu, được xây dựng tại 905 vị trí.

Cùng với việc hoàn thành công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới, hai nước cũng đã hoàn thiện bộ hồ sơ pháp lý về mốc quốc giới, ký hai văn kiện pháp lý rất quan trọng là Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới Việt Nam - Lào và Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam - Lào. Hai văn kiện này cùng với Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Lào năm 1977 trở thành bộ hồ sơ pháp lý hoàn chỉnh nhất về đường biên giới hai nước. Với bộ hồ sơ này, đường biên giới Việt Nam - Lào đã được xác định rõ ràng, chính xác, có giá trị pháp lý quốc tế cao và là cơ sở cho công tác quản lý biên giới trong tình hình mới. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục phát triển đường biên giới Việt Nam - Lào hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác phát triển.

Phát biểu tại Lễ tổng kết Dự án được Chính phủ hai nước tổ chức tại Hà Nội ngày 16/3/2016, Thủ tướng Chính phủ hai nước nhấn mạnh Dự án này là một biểu hiện sinh động nữa của mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau, phù hợp luật pháp và thực tiễn quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, vì một đường biên giới ổn định, hợp tác cùng phát triển.

Công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào còn là thành quả chung của nhân dân hai nước, thể hiện sự nhất trí cao, sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước.