Chủ tịch Fidel Castro thăm Quảng Trị, ngày 15/9/1973. (ảnh do tác giả cung cấp) |
Đứng trên đồi 241, Cam Lộ, Quảng Trị, còn đầy chiến tích, dáng vóc uy nghi giữa các chiến sĩ giải phóng quây quần xung quanh, Fidel đã phất cao lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, giọng dõng dạc: “Các đồng chí hãy đem lá cờ bách chiến, bách thắng này cắm giữa Sài Gòn!”. Chưa đầy 2 năm sau, điều đó đã thành sự thật.
Biểu tượng của tình hữu nghị
Dịp đó, Fidel đã tặng Việt Nam 5 công trình lớn trị giá 80 triệu USD: khách sạn chất lượng quốc tế Thắng Lợi 150 phòng ở Hồ Tây (Hà Nội) “để đón tiếp khách tới thăm”; Bệnh viện đa khoa hiện đại Đồng Hới 500 giường ở Quảng Bình “để chữa chạy cho các chiến sĩ miền Nam và đồng bào vùng chiến tranh ác liệt nhất”; Trại bò đực giống Moncada ở Ba Vì, trại bò sữa giống Mộc Châu và trại gà giống ở Tam Đảo với những con giống tốt nhất và trang thiết bị hiện đại nhất để phát triển chăn nuôi bò, gà phục vụ đời sống nhân dân; Con đường Xuân Mai phục vụ đi lại, khi cần sẽ biến thành đường băng cho máy bay chiến đấu, cùng một khoản ngoại tệ để Việt Nam mua thiết bị hiện đại mở rộng đường Hồ Chí Minh, chuẩn bị tổng tấn công mùa Xuân 1975.
Trở lại thăm Việt Nam ngày 10/12/1995, Fidel xúc động nhắc lại ấn tượng sâu sắc trong chuyến thăm lịch sử đầu tiên tháng 9/1973 và bày tỏ “Giấc mơ của Hồ Chí Minh khi Người nói 'Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do' và 'Đến ngày thắng lợi ta sẽ xây dựng đất nước một trăm lần to đẹp hơn' đã được thực hiện. Nhân dân Việt Nam trong nhiều thập kỷ đã đổ biết bao xương máu, trong khi có những nước đã kinh doanh trên máu của Việt Nam. Ngày nay, rất nhiều trong số những dân tộc này công nhận Việt Nam, ngưỡng mộ Việt Nam, thiết lập quan hệ hòa bình với Việt Nam và hợp tác với Việt Nam. Việt Nam đang tăng trưởng nhanh hơn bất cứ quốc gia nào khác trong khu vực. Giờ đây, những giọt máu cao quý và hào sảng của người Việt Nam đang mang lại phúc lợi, thịnh vượng và hạnh phúc cho người dân của mình. Bằng cả trái tim mình, tôi muốn ôm hôn tất cả các anh hùng có mặt hôm nay, và cả những anh hùng đã được nhắc đến ở đây”.
Trong chuyến thăm Việt Nam cuối cùng (22/2/2003), sau khi nhắc lại những ấn tượng sâu sắc trong hai chuyến thăm trước, Fidel đã bày tỏ: “Thật thán phục những gì các đồng chí đạt được sau quãng thời gian tương đối ngắn, từ đất nước bị chiến tranh tàn phá. Có lẽ vẫn còn nhiều khó khăn, khó khăn luôn có, nhưng chẳng khó khăn nào thắng nổi ý chí quyết tâm, tính nhẫn nại, tinh thần lao động quên mình của dân tộc tuyệt vời này. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh, khi dân tộc đã quyết tâm bảo vệ sự sống của mình, bản sắc của mình và tương lai của mình bằng bất cứ giá nào thì không siêu cường nào có thể chống lại dân tộc đó. Đó là tấm gương lớn nhất Việt Nam đã cống hiến cho thế giới.
Với Chủ tịch Fidel, 9/1995, tại La Habana. (ảnh VNCC) |
Fidel và Hồ Chí Minh
Tình yêu của Fidel với Việt Nam không chỉ thể hiện qua gần 100 bài phát biểu mà còn được thể hiện qua những gì ông đã bày tỏ trong các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo và nhân dân ta.
Trước hết phải nhắc tới tình cảm đặc biệt của Fidel đối với Bác Hồ. Mặc dù hai vị lãnh tụ đã không có dịp gặp nhau, nhưng có một sự đồng nhất về lý tưởng, tư duy, bản lĩnh, ý chí, quyết tâm, nhân cách, tình cảm... giữa hai vĩ nhân. Không biết bao lần Fidel đã bày tỏ trước công chúng tình yêu, sự kính trọng và ngưỡng mộ đặc biệt đối với Bác Hồ. Fidel từng cử phái viên mang sang Việt Nam biếu Bác những món quà đặc biệt như giống ếch Cuba khổng lồ, máy làm kem tối tân cùng nguyên liệu Cuba mới nhập.
Tôi không thể nào quên những giây phút tiếp đón Fidel đến viếng Bác tại Đại sứ quán Việt Nam ở Cuba ngay sau khi tin Bác qua đời, chứng kiến gương mặt ông thật đau buồn và xúc động. Ông ngồi lại rất lâu để hỏi chuyện về Bác, bày tỏ vô cùng nuối tiếc vì chưa được gặp Bác. Fidel đã cử hai người bạn chiến đấu thân thiết trong số năm nhà lãnh đạo cao nhất Cuba là các Tư lệnh Cách mạng Juan Almeida và Ramiro Valdes sang viếng Bác ở Hà Nội. Trong chuyến thăm Việt Nam đầu tiên một lần nữa ông lại hết lời ca ngợi đạo đức, thiên tài và công lao to lớn của Bác Hồ đối với Việt Nam cũng như đối với sự nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc trên thế giới. Rồi giọng ông chùng xuống: “Chúng tôi chỉ có một nỗi đau lòng là đã không đến được Việt Nam trước ngày 3/9/1969, không có may mắn lớn được gặp trực tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng tôi vô cùng khâm phục. Nhưng chúng tôi được đền bù là đã được gặp và tiếp xúc và gần gũi nhân dân Việt Nam và được thấy phản chiếu trong nhân dân Việt Nam sự nghiệp của Người, những lời giáo huấn của Người, sự giáo dục, công lao và tấm gương của Người, chủ nghĩa anh hùng và đức tính khiêm tốn của Người”.
Tâm khảm tôi còn in đậm tình cảm, sự đón tiếp đặc biệt nồng hậu Fidel dành cho Việt Nam, cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong chuyến Thủ tướng thăm Cuba tháng 3/1974. Fidel đã tổ chức cuộc mít-tinh trên 300.000 người tham dự tại Quảng trường Cách mạng Jose Marti ở Thủ đô để chào mừng và nghe Thủ tướng phát biểu, rồi đích thân dẫn Thủ tướng thăm các nơi với sự chào đón của quần chúng. Giây phút đặc biệt xúc động khi Fidel ôm hôn nồng nhiệt Thủ tướng tại chân cầu thang máy bay khi đến cũng như khi tiễn. Fidel cũng bất ngờ tới thăm Thủ tướng tại nhà khách dành cho Nguyên thủ.
Tôi cũng không bao giờ quên sự đón tiếp đặc biệt thân tình Fidel đã dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chuyến thăm chính thức Cuba và tham dự Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba cuối 1975, đầu 1976. Những câu chuyện thật thân tình chỉ có thể có giữa hai vị Tổng tư lệnh dày dạn trận mạc, hai anh hùng huyền thoại, hai người anh em thân thiết! Chỉ ít ngày trước khi qua đời, Fidel đã tiếp Chủ tịch nước ta là nguyên thủ nước ngoài cuối cùng được gặp ông.
Hình mẫu hiếm có của tình đoàn kết
Theo tinh thần chỉ đạo của Fidel, Cuba luôn là nước đi tiên phong và nổi bật nhất trong phong trào thế giới ủng hộ Việt Nam chống ngoại xâm. Không có quốc gia nào thể hiện tình đoàn kết chiến đấu, sự ủng hộ hết lòng sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam bằng những hành động cụ thể, phong phú về mọi phương diện, nhiệt tình, triệt để, thiết thực, liên tục, ngày càng mạnh mẽ từ trung ương đến cơ sở trên khắp cả nước như Cuba.
Cuba là nước đầu tiên trên thế giới thành lập Ủy ban đoàn kết với Việt Nam do bà Melba Hernandez, nữ anh hùng Moncada, bạn chiến đấu của Fidel trực tiếp làm Chủ tịch, với hệ thống tổ chức từ trung ương tới cơ sở, là nước đầu tiên công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cho phép Mặt trận thành lập Cơ quan đại diện ở La Habana với quy chế ngoại giao, cung cấp mọi phương tiện, kinh phí hoạt động. Cuba cũng là nước đầu tiên cử Đại sứ tới trình Quốc thư và là nước đầu tiên cử nhà báo tới thăm vùng giải phóng miền Nam.
Suốt bao năm Cuba tặng Việt Nam mỗi năm 1 vạn tấn đường, giúp đỡ và chi phí cho nhiều hoạt động của Việt Nam như dành làn sóng riêng, chu cấp toàn bộ và giúp chuyên gia cho một tổ của Đài Tiếng nói Việt Nam thường trú ở đó để hàng ngày phát thanh vào Mỹ và Tây bán cầu, cũng như sau Hiệp định Paris giúp nhóm kỹ thuật viên Việt Nam sang tìm hiểu, học tập để chuẩn bị tiếp quản Đài truyền hình Sài Gòn.
Năm 1972, Cuba đã cử đội y tế sang giúp Việt Nam. 2 tàu Cuba El Jigue và Imias chở viện trợ cùng bom mìn cập cảng Hải Phòng. Hơn 1.000 kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân Cuba cùng toàn bộ trang thiết bị, vật liệu cần thiết đã cùng sát cánh với Việt Nam xây dựng 5 công trình Fidel tặng…
Cuba đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ hào hiệp, vô tư như vậy trong khi còn nghèo, thiếu thốn, phải thực hiện chế độ tem phiếu và nhận viện trợ nước ngoài. Không thể thống kê các hoạt động đa dạng đoàn kết với Việt Nam đã được tố chức ở Cuba từ trung ương đến địa phương. Cũng không biết bao nhiêu đường phố, trường học, nhà máy, công viên… ở Cuba mang tên Việt Nam.
Có thể nói tình đoàn kết chiến đấu, sự ủng hộ và giúp đỡ hết lòng của Fidel cũng như của nhân dân Cuba đối với Việt Nam là có một không hai trong lịch sử, là hình mẫu cao đẹp cần được xây dựng trong quan hệ quốc tế hiện đại.
Đại sứ Nguyễn Đình Bin
Tác giả là cựu lưu học sinh tại Cuba, Nguyên Ủy viên TƯ Đảng khóa VIII, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Phó Bí thư Đảng ủy khối các Cơ quan đối ngoại TƯ, Đại sứ tại Nicaragua kiêm nhiệm Ecuador và tại Pháp kiêm nhiệm Bồ Đào Nha.