📞

Hiểu đúng và đủ yêu cầu pháp lý để tận dụng tối đa lợi ích từ Hiệp định CPTPP

Gia Thành 12:09 | 19/02/2020
TGVN. Hội thảo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định CPTPP: Yêu cầu hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) đã diễn ra sáng 19/2, tại Hà Nội.    
Viện trưởng CIEM TS. Trần Thị Hồng Minh phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: G.T )

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho rằng, kể từ năm 2012, Việt Nam đã tập trung hơn vào đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hướng tới cải thiện chất lượng tăng trưởng cũng như chất lượng công tác điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế đã có sự chuyển dịch từ chủ yếu theo chiều rộng sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt, sự góp mặt của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng giúp Việt Nam mở ra những cơ hội mới.

Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/1/2019. Hiệp định này được kỳ vọng sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát triển thương mại và đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả thực thi và khả năng tận dụng những lợi ích tiềm năng từ Hiệp định CPTPP còn phụ thuộc vào năng lực thể chế, năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trong nước.

Đưa ra ý kiến tại Hội thảo, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp tại CIEM Nguyễn Anh Dương cho biết, CPTPP ít nhiều đã đóng góp tích cực vào hoạt động thương mại của Việt Nam. Với khối nước tham gia CPTPP, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chiếm gần 30,2% giai đoạn 2007-2008 nhưng giảm dần xuống 23% giai đoạn 2009-2010 và 18% giai đoạn 2011-2018. Trong năm 2019, năm đầu tiên thực hiện CPTPP, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 6 nước thành viên đã phê chuẩn Hiệp định đạt 34,4 tỷ USD, tăng 8,3%; trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 30,1%, chỉ tăng 1%.

Hiệp định CPTPP có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách môi trường đầu tư - kinh doanh của Việt Nam. (Ảnh: G.T)

Ông Nguyễn Anh Dương cho rằng, kết quả tính toán các chỉ số thương mại của Việt Nam cho thấy, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu các mặt hàng truyền thống như giày dép, hàng mây tre, cà phê, quần áo và may mặc. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam có độ tương đồng khá cao với các đối tác như ASEAN, Trung Quốc, RCEP, CPTPP. Mức độ tương đồng xuất khẩu có xu hướng tăng trong giai đoạn kể từ năm 2008 đến nay.

Theo ông Nguyễn Anh Dương, tỷ lệ tận dụng các FTA của Việt Nam đạt khoảng 39% năm 2018-2019. Hiệp định CPTPP mới bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2019, do đó, tỷ lệ tận dụng ưu đãi chưa cao ở một số mặt hàng, một số thị trường. Những ngành có tỷ lệ tận dụng cao tại các FTA như thuỷ sản, dệt may, da giày… cũng là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu trên nhiều thị trường.

Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam cũng tiếp tục phát triển vững chắc. Trong giai đoạn 2010-2019, thu hút FDI của Việt Nam tăng bình quân 12,4%/năm về số dự án, 5,1%/năm về vốn đăng ký và 7,4% về vốn thực hiện. Quy mô FDI thực hiện liên tục đạt những kỷ lục mới, năm 2019 là 20,4 tỷ USD.

Bên cạnh đó, niềm tin của các nhà đầu tư tại Việt Nam ngày càng được củng cố trong bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định. Đặc biệt, ông Nguyễn Anh Dương khẳng định, Hiệp định CPTPP có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách môi trường đầu tư - kinh doanh của Việt Nam, các cơ quan hoạch định chính sách và cộng đồng nhà đầu tư cũng sẵn sàng hơn với những cơ hội từ CPTPP.

Theo đó, CPTPP nằm trong số những hiệp định thương mại có yêu cầu cao nhất đến môi trường và nhìn chung, công tác xây dựng khung khổ pháp lý nhằm thực hiện hiệu quả CPTPP đã có sự chuyển biến tích cực.

Đông đảo khách mời quan tâm đến buổi Hội thảo. (Ảnh: G.T)

Tuy vậy, ông Nguyễn Anh Dương cho hay, việc thực thi hiệu quả Hiệp định CPTPP vẫn đòi hỏi Việt Nam phải xử lý một số yêu cầu về thể chế, bao gồm hiểu đúng và đầy đủ các nội dung pháp lý trong CPTPP, cải thiện hiệu quả việc phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan, kịp thời rà soát và ban hành các văn bản pháp luật thực thi Hiệp định này.

Ở cấp độ doanh nghiệp, theo Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp tại CIEM, doanh nghiệp có cơ hội không nhỏ từ Hiệp định CPTPP. Các doanh nghiệp đã có sự quan tâm, tìm hiểu về CPTPP. Dù vậy, doanh nghiệp còn phải điều chỉnh, xử lý một số vấn đề quan trọng để sẵn sàng hơn đối với CPTPP. Cụ thể, về mức độ hiểu biết, các doanh nghiệp còn quá lưu tâm đến vấn đề ngắn hạn, mới chỉ hiểu về thuế và cắt giảm thuế chứ chưa thực sự hiểu đầy đủ về quy tắc xuất xứ.

Ông Nguyễn Anh Dương cho rằng, doanh nghiệp Việt còn nhiều dư địa để tận dụng ưu đãi trong Hiệp định này. Vì vậy, để tận dụng tối đa lợi ích từ CPTPP, doanh nghiệp cần xử lý các thách thức, cải thiện năng lực cạnh tranh, hài hòa việc thực hiện CPTPP với các tuyến hội nhập khác. Đồng thời, Chính phủ cần củng cố hơn nữa đồng thuận xã hội về tiến trình và các biện pháp cải cách, cân bằng các mục tiêu chính sách, đồng thời tạo dựng thêm không gian để hỗ trợ doanh nghiệp.

Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) do Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia tài trợ sẽ hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện các mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, hướng tới phát triển nhanh, bền vững. Chương trình có trị giá 6,5 triệu AUD, hoạt động trong thời gian 4 năm từ năm 2017-2021.