Con đường phục hồi kinh tế thế giới sẽ không bằng phẳng. (Nguồn: Financial Times) |
Tàn dư của Covid-19
Để chống lại sự tàn phá nặng nề của đại dịch Covid-19, các quốc gia đã tung ra các gói kích thích "khủng", với trị giá lên tới 26.000 tỷ USD và phát triển vaccine để đẩy nhanh đà phục hồi nền kinh tế. Tuy nhiên, tình trạng mất việc làm, nợ tăng cao, bất bình đẳng hay giáo dục bị gián đoạn bởi Covid-19 sẽ để lại những vết sẹo sâu, chủ yếu ở các quốc gia thuộc nhóm kém phát triển.
Ông Vellore Arthi, Đại học California nhấn mạnh: "Sau một năm mệt mỏi chống chọi với Covid-19, chúng ta sẽ thấy thực sự nhẹ nhõm vì mọi thứ đã trở lại đúng hướng. Tuy nhiên, có hậu quả có thể kéo dài trong nhiều thập kỷ và không dễ giải quyết”.
Năm 2020, GDP toàn cầu đã suy giảm mạnh nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 2008-2009. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ước tính, mức giảm này tương đương với 255 triệu lao động toàn thời gian mất việc làm.
Các nhà nghiên cứu tại Pew Research thì ước tính, số người thuộc tầng lớp trung lưu toàn cầu năm 2020 lần đầu tiên thu hẹp kể từ thập niên 90.
Tất nhiên, sự suy giảm nói trên không đồng đều giữa các quốc gia và không phải tất cả các quốc gia sẽ bị ảnh hưởng như nhau.
Theo nghiên cứu của Oxford Economics với 162 quốc gia, dựa trên 31 tiêu chí cho thấy, Philippines, Peru, Colombia và Tây Ban Nha là những nền kinh tế dễ bị tổn thương nhất. Trong khi đó, Australia, Nhật Bản, Na Uy, Đức và Thụy Sĩ là những quốc gia có điều kiện thuận lợi thoát khỏi khủng hoảng kinh tế do Covid-19 gây ra.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận thấy, các nền kinh tế tiên tiến ít bị ảnh hưởng bởi đại dịch trong năm nay và các năm tới. Trong khi đó, với các quốc gia thu nhập thấp và các thị trường mới nổi sẽ chịu thiệt hại nhiều hơn hơn - trái ngược với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009, khi các quốc gia tiên tiến chịu ảnh hưởng nặng nề hơn.
GDP của Mỹ trong năm tới cũng được dự báo cao hơn mức trước Covid-19, nhờ gói kích thích kinh tế trị giá 1.900 tỷ USD của Tổng thống Joe Biden.
Carmen Reinhart, nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, để quay trở lại những tiêu chuẩn trước Covid-19 sẽ mất nhiều thời gian.
WB cảnh báo, nền kinh tế toàn cầu có thể phải đối mặt với “một thập niên mất mát”, trừ khi các chính sách phù hợp được thực hiện. WB cũng ước tính, GDP toàn cầu năm 2025 sẽ vẫn thấp hơn 5% so với mức trước Covid-19 và tốc độ tăng trưởng sẽ rơi xuống dưới 2% trong thập niên tới.
Theo các chuyên gia, không cần phải mất một thập niên nếu các chính sách đúng đắn được thực hiện, đặc biệt là trong các lĩnh vực đào tạo các kỹ năng cho người lao động và hỗ trợ nhóm chịu tác động nặng nhất từ cuộc khủng hoảng. Bên cạnh đó, giải pháp quan trọng giúp phục hồi hậu Covid-19 là tạo động lực cho doanh nghiệp đổi mới và đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.
Đà phục hồi hình chữ V đã kết thúc?
Các quốc gia nhanh chóng kiểm soát được virus SARS-CoV-2 đang phát đi cảnh báo rằng, con đường phục hồi kinh tế sẽ không bằng phẳng.
Sau khi đà phục hồi kinh tế ban đầu diễn ra theo hình chữ V (sự giảm mạnh, sau đó tăng nhanh tiến tới điểm cao nhất trước suy thoái), nền kinh tế New Zealand đã suy thoái trong 3 tháng cuối năm 2020 do sự vắng mặt của khách du lịch nước ngoài. Theo Bloomberg, quốc gia này có thể đối mặt với viễn cảnh suy thoái kép.
Còn tại Trung Quốc, nơi đại dịch đã được kiểm soát trong gần một năm qua, tiêu dùng đang tụt hậu so với sự phục hồi kinh tế trên diện rộng.
Adam Posen, Chủ tịch Viện Kinh tế Quốc tế Peterson nhận định: "Có một sự không chắc chắn về hành vi tiêu dùng của mọi người sau cuộc khủng hoảng Covid-19. Nếu mọi người quay trở lại các quán ăn, nhà hàng, đi du lịch giải trí, đến các phòng tập thì rất nhiều ngành công nghiệp sẽ hồi sinh trở lại.
Nhưng cũng có khả năng hành vi tiêu dùng của mọi người đã thực sự thay đổi. Điều này sẽ khiến tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục tăng và các chính phủ khó có biện pháp khắc phục được điều đó".
Những vết sẹo khó lành
Cuộc khủng hoảng đã thúc đẩy việc sử dụng robot trong cả các ngành sản xuất và dịch vụ khi công nhân và khách hàng cần được bảo vệ khỏi sự lây lan của dịch bệnh. Tuy nhiên, điều này đang đặt ta câu hỏi về việc liệu số việc làm mới có được tạo ra trong thời gian này hay không?
Theo McKinsey & Co, hơn 100 triệu người ở 8 nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể cần phải chuyển đổi nghề nghiệp vào năm 2030. Những người dễ thiếu hụt kỹ năng nhất là tầng lớp có trình độ giáo dục thấp, phụ nữ, người thuộc nhóm thiểu số và người trẻ. Càng thất nghiệp lâu, kỹ năng của những người này càng mai một.
Eric Robertsen, trưởng bộ phận nghiên cứu toàn cầu của Standard Chartered Plc cho rằng, rất nhiều công việc có thể biến mất vĩnh viễn. Các công việc thu nhập thấp ở những công ty hay lĩnh vực nhỏ sẽ biến mất khi nhóm doanh nghiệp bị phá sản.
Ngay cả khi việc làm không bị mất, các mô hình làm việc đã thay đổi và vẫn còn là một cuộc tranh luận mở về việc những thay đổi đó sẽ tác động như thế nào đến mức lương.
Vết sẹo mà đại dịch Covid-19 gây ra cũng được phản ánh qua nhân lực, khi đại dịch khiến trẻ em và sinh viên nhiều quốc gia không thể đến trường suốt cả năm.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) thậm chí còn ước tính, học sinh không thể đến trường trong 1/3 năm học có thể hạn chế tăng trưởng GDP của cả một quốc gia suốt những năm còn lại của thế kỷ.
OECD cảnh báo: "Những học sinh từ lớp 1-12 có thể nhận thu nhập thấp hơn 3% trong suốt cuộc đời. Nhóm chịu tác động mạnh nhất là người nghèo và thiểu số".
Cũng theo Viện Tài chính Quốc tế, khối nợ toàn cầu tăng 24.000 tỷ USD năm ngoái, lên tổng cộng 281.000 tỷ USD. Điều này khiến khả năng phục hồi hoàn toàn thêm phức tạp.
Theo Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng của Moody's Analytics, ngay cả khi không có khủng hoảng nợ, một khi lãi suất bắt đầu tăng, các quốc gia và doanh nghiệp sẽ phải chịu thêm áp lực.