| Kể từ khi tiến hành cải cách, nền kinh tế Canada đã thực sự cất cánh. |
Đầu thế kỷ 20, Canada là một trong những nước giàu nhất thế giới với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, cơ sở kinh tế vững chắc do Đế quốc Anh để lại và cơ hội tiếp cận thị trường Mỹ năng động. Nhưng những thập kỷ sau đã chứng minh tiên đoán của Laurier chỉ là hoang đường. Xét trên nhiều góc độ, tình hình Canada năm 1994 rất giống với tình hình hiện nay tại Mỹ và Châu Âu: tài chính công suy thoái ở cả cấp liên bang và địa phương; nợ quốc gia tăng với tốc độ báo động. Tạp chí Wall Street Journal thậm chí còn gọi Canada khi đó là "một thành viên đáng kính của Thế giới Thứ ba".
Tuy nhiên, hiện nay Canada đã trở lại với quỹ đạo phát triển ổn định. Nền kinh tế tăng trưởng trung bình 3,3% trong giai đoạn 1997-2007, tốc độ cao nhất trong khối G7. Cũng trong thời gian này, số việc làm tăng ở mức độ kỷ lục 2,2% - gấp hơn 2 lần so với Mỹ và vượt tốc độ trung bình của G7. Tốc độ đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại Canada cũng vượt tốc độ trung bình của G7. Do đó, có thể Laurier không sai nhưng chỉ có điều ông đã tiên đoán sớm 100 năm. Nếu tiếp tục "phong độ" hiện nay, sẽ không quá lời khi cho rằng đây sẽ là thế kỷ của Canada - kỷ nguyên trong đó quốc gia này sẽ trở thành cường quốc kinh tế thế giới và thoát dần khỏi "cái bóng" của Mỹ.
Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1993, giữa lúc Canada đang chìm ngập trong khủng hoảng và công chúng đang mong chờ một sự thay đổi, thì đảng Tự do Trung tả của ông Jean Chretien lên nắm quyền. Trong năm đầu tiên, cam kết cải cách của chính phủ mới không gặt hái được kết quả khả quan. Tuy nhiên, bước ngoặt đã đến vào năm 1995 khi Bộ trưởng Tài chính Paul Martin tuyên bố định hướng ngân sách mới cho chính phủ liên bang. Ông nói: "Chúng ta đang hành động dựa trên nhãn quan mới về vai trò của chính phủ. Chính phủ càng nhỏ thì càng hiệu quả."
Nguồn thu ngân sách năm 1995 chủ yếu dựa vào việc cắt giảm chi tiêu chứ không phải tăng thuế nhằm ngăn chặn thâm hụt và từng bước giảm nợ quốc gia. Chi tiêu đã giảm 8,8% trong vòng 2 năm, trong đó chủ yếu là cắt giảm trong lĩnh vực giao thông, công nghiệp, và hỗ trợ nghiên cứu khoa học. Quy mô ngân sách của chính quyền liên bang giảm từ 16,2% GDP năm 1994 xuống còn 13,1% năm 1996. Số việc làm lĩnh vực công cộng cũng giảm 14%.
Chính sách mới đã nhanh chóng phát huy tác dụng. Chi tiêu ngân sách chính phủ liên bang giảm nhanh hơn dự tính. Chi tiêu của chính quyền địa phương cũng giảm từ 25% GDP xuống còn 20%. Đến năm 1997 đã bắt đầu có thặng dư ngân sách liên bang và nợ quốc gia cũng giảm gần một nửa. Thặng dư ngân sách cùng với sự phát triển ổn định của nền kinh tế khiến cho Ottawa có thể cắt giảm thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập tập đoàn và thuế tư bản tập đoàn.
Tuy nhiên, cải cách ở Canada không chỉ dừng lại ở vấn đề cân bằng ngân sách. Chính quyền Chretien đã dũng cảm đương đầu với 2 vấn đề gai góc nhất: Chương trình lương hưu Canada (CPP) và phúc lợi. CPP là chương trình lương hưu công cộng quan trọng nhất ở Canada, gần giống với Chương trình An ninh xã hội ở Mỹ. Nguồn tài chính không ổn định của CPP trước đó vốn không được quan tâm, giờ đây trở thành một trong những ưu tiên của Chính quyền mới. Chính quyền liên bang và chính quyền 9 tỉnh đã tiến hành cải cách CPP (bắt đầu có hiệu lực vào năm 1998), bao gồm: tăng thuế thu nhập, giảm lợi nhuận và đầu tư thặng dư ngân sách vào cổ phần phi lợi nhuận. Kết quả là nguồn tài chính của CPP đã trở nên ổn định và Chính quyền Canada hoàn toàn có đủ khả năng để chi trả lương hưu cho thế hệ bùng nổ dân số.
Cũng giống như ở Mỹ, Canada đã tiến hành cuộc cải cách lịch sử đối với các chương trình phúc lợi của nước này. Tuy nhiên, cách tiếp cận của Ottawa mang tính phân quyền hơn cách tiếp cận của Washington. Ottawa đã trao cho chính quyền địa phương quyền xây dựng chính sách phúc lợi của riêng mình. Điều này đã khuyến khích được sự tự lập và sáng tạo ở các địa phương. Kết quả là một số lượng lớn người dân Canada đã gia nhập trở lại lực lượng lao động và đến năm 2000, số người phải nhận phúc lợi đã giảm hơn 1 triệu người, từ 10,7% xuống còn 6,8% dân số.
Có thể nói, kể từ khi tiến hành cải cách, nền kinh tế Canada đã thực sự cất cánh. Hơn nữa, Canada đã vượt qua cuộc khủng hoảng hiện nay nhanh hơn các nước G7 khác và vẫn bảo vệ được các kết quả của công cuộc cải cách. Khủng hoảng tại Canada chỉ kéo dài trong vòng 3 quý - từ quý 4 năm 2008 đến quý 2 năm 2009. Từ giữa năm 2009, nền kinh tế Canada đã tăng trưởng trở lại. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 8,7% (8/2009) xuống còn 8,1% (5/2010). Không có thể chế tài chính lớn nào phản nhận sự cứu trợ của chính phủ.
Kinh nghiệm và biện pháp khắc phục khủng hoảng của Canada rất đáng để "gã khổng lồ" Mỹ học tập bởi hai nước có nhiều điểm tương đồng về thể chế chính trị và những thách thức kinh tế - xã hội. Nhiều nhà phân tích cho rằng Tổng thống Obama và đội quân cố vấn của ông nên học tập mô hình của Canada nếu không muốn bị tụt lại phía sau. Với những kết quả đã đạt được từ công cuộc cải cách, người Canada hoàn toàn có thể mơ về một kỷ nguyên của riêng mình. N
Khai Tâm