Châu Âu theo truyền thống là đối tác thương mại lớn nhất của Nga. Vào năm 2021, khu vực này đại diện cho một nửa xuất khẩu và nhập khẩu của Nga. (Nguồn: Moscow News Agency) |
Chuyên gia về kinh tế và địa chính trị châu Á Hubert Testard nhận định, gần hai năm sau chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, chiến lược xoay trục sang châu Á của Nga đã có những bước tiến rất đáng kể.
Thương mại giúp Nga trụ vững
Các lệnh trừng phạt của châu Âu vẫn đang tiếp diễn. Năm 2023, xuất khẩu của Nga xét về mặt giá trị vẫn ở mức tương đương của năm 2019, tức là khoảng 422,7 tỷ USD, trong khi nhập khẩu tăng. Sau năm 2020 và cú sốc đại dịch Covid-19, năm 2022 là một năm thuận lợi cho xuất khẩu của Nga do giá năng lượng tăng vọt, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của lĩnh vực này chạm mốc hơn 500 tỷ USD.
Năm 2023 kém "rực rỡ" hơn khi giá dầu giảm. Tuy nhiên, thặng dư thương mại của Nga vẫn ở mức đáng kể, khoảng 140 tỷ USD. Trong khi đó, nhập khẩu đã tăng gần 20% vào năm 2023, ước đạt 284 tỷ USD.
Một điểm nổi bật trong hoạt động xuất khẩu của Moscow đó là dòng chảy hàng hóa đang hướng mạnh về châu Á và Thổ Nhĩ Kỳ.
Châu Âu theo truyền thống là đối tác thương mại lớn nhất của Nga. Vào năm 2021, khu vực này đại diện cho một nửa xuất khẩu và nhập khẩu của Nga.
Châu Á đứng ở vị trí thứ hai, với một phần ba thương mại của Moscow. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh vào năm 2023 rất khác.
Trong số 38 đối tác lớn của Nga được thống kê bởi Cơ quan Theo dõi Ngoại thương Nga của tổ chức nghiên cứu Bruegel, gần 2/3 hàng xuất khẩu của nước này có điểm đến hiện nay là 5 quốc gia châu Á. Từ năm 2021 đến năm 2023, sự sụt giảm doanh số bán hàng sang hai quốc gia đồng minh của phương Tây là Nhật Bản (-49%) và Hàn Quốc (-47%) đã tạo ra mức thâm hụt kim ngạch thương mại hơn 15 tỷ USD.
Bù lại, doanh số bán hàng của Nga sang Trung Quốc và Ấn Độ đã đạt tổng cộng 108 tỷ USD. Con số này gần như bù đắp đủ cho phần sụt giảm xuất khẩu của Nga sang Liên minh châu Âu (EU), vào khoảng -106 tỷ USD.
Liên minh châu Âu (EU) hiện đã tụt xuống là nhà nhập khẩu hạng hai, chiếm 16,5% tổng lượng hàng xuất khẩu của Nga và doanh số bán hàng của Nga sang Mỹ đã trở nên vô cùng “nhỏ bé”.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang trở thành đối tác quan trọng của Nga. Trong nhóm 38 quốc gia được thống kê nói trên, Ankara hiện chiếm hơn 13% xuất khẩu của Nga so với 7% vào năm 2021, với lượng xuất khẩu bổ sung đạt 21 tỷ USD. Con số này nhiều hơn khoảng kim ngạch cần thiết để bù đắp cho sự sụt giảm doanh số bán hàng sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tóm lại, "bộ ba" Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ đã giúp xuất khẩu của Moscow đạt 130 tỷ USD trong hai năm qua, tương đương với sự sụt giảm doanh số bán hàng của Nga sang 27 nước thành viên EU, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc (-139 tỷ USD).
Tổn thất năng lượng
Các sản phẩm năng lượng – mặt hàng thế mạnh của Nga – phần lớn được xuất khẩu sang châu Á và Thổ Nhĩ Kỳ. Hai thị trường này hoàn toàn bù đắp cho sự sụt giảm doanh số bán hàng của Moscow sang EU và Mỹ.
Xét theo loại năng lượng, xuất khẩu than của Nga sang EU, Mỹ và Anh đã giảm về 0.
Tuy nhiên, Trung Quốc và Ấn Độ đã mua 60% than của Nga vào năm 2023. Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) cũng tiếp tục nhập khẩu với số lượng đáng kể.
Tổng cộng, theo Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch (CREA), châu Á ngày nay mua gần như toàn bộ than của Nga.
Việc bán dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ là nguồn thu ngoại tệ chính của Điện Kremlin. Nga đã giảm 93% xuất khẩu dầu vào EU kể từ năm 2021, nhưng Ấn Độ đã tăng mua gấp 14 lần và Trung Quốc đã tăng 25%.
Hai "gã khổng lồ" châu Á hiện chiếm từ 80 đến 90% lượng dầu thô xuất khẩu của Moscow. Về phần mình, Thổ Nhĩ Kỳ cũng là nước nhập khẩu hàng đầu các sản phẩm dầu mỏ của Điện Kremlin.
Mức trần giá dầu 60 USD/thùng do Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) và EU áp đặt vào tháng 12/2022, dựa trên lệnh cấm sử dụng tàu mang cờ phương Tây hoặc được bảo hiểm bởi các công ty bảo hiểm phương Tây chỉ có tác dụng hạn chế. Tỷ lệ tàu cung cấp cho Nga và được các nước G7 bảo hiểm đạt ở mức 80% vào tháng 4/2022.
Sau 18 tháng, tỷ lệ này giảm xuống 35% và hai lá cờ chính được sử dụng cho các tàu xuất khẩu dầu của Nga ngày nay là Trung Quốc và Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE). Kết quả là Moscow ghi nhận tổn thất doanh thu từ dầu mỏ vào năm 2023 chỉ vào khoảng 14%. Điều này cho thấy rằng, lượng xuất khẩu vẫn ở mức tương đối ổn định.
Trung Quốc hiện nhập khẩu 22 tỷ m3 khí đốt của Moscow thông qua đường ống Power of Siberia. (Nguồn: DPA) |
"Mắt xích còn thiếu"
Trong lĩnh vực khí đốt, dường như Nga có vẻ ở trong tình thế khó khăn hơn. Xuất khẩu của nước này chủ yếu dưới hình thức giao hàng bằng đường ống dẫn khí đốt.
Mạng lưới đường ống dẫn khí đốt của nước này cung cấp cho khắp châu Âu, Trung Á, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong nhiều thập kỷ, thị trường khí đốt chính của Nga là châu Âu. Do đó, khi khối lượng xuất khẩu sang châu Âu giảm 80%, đã không thể được bù đắp bởi các điểm đến khác.
Trung Quốc hiện nhập khẩu 22 tỷ m3 khí đốt của Moscow thông qua đường ống Power of Siberia. Nước này có thể tăng công suất nhập khẩu khí đốt của Nga lên tối đa 50 tỷ m3 vào năm 2025-2026, sử dụng toàn bộ tiềm năng của Sức mạnh Siberia và bổ sung thêm 10 tỷ m3 từ một đường ống khác từ Sakhalin.
Nhưng việc tăng gấp đôi lượng nhập khẩu của Trung Quốc lên 100 tỷ m3 chỉ có thể thực hiện được khi xây dựng đường ống Power of Siberia II.
Tuy nhiên, đường ống dẫn khí mới này vẫn chỉ là dự án được hai nước đàm phán trong hai năm qua. Trung Quốc không thực sự cần khí đốt của Nga để đảm bảo nguồn cung và do đó nước này đã áp đặt các điều kiện khắc nghiệt.
Theo thông tin báo chí có được, Nga sẽ phải tài trợ toàn bộ dự án và đồng ý ký hợp đồng dài hạn với mức giá rất hấp dẫn.
Chuyến thăm gần đây của Tổng thống Nga Vladimir Putin tới Trung Quốc đã không thể đạt được thỏa thuận về dự án này. Trong mọi trường hợp, đường ống dẫn khí mới sớm nhất chỉ có thể đi vào hoạt động từ năm 2030.
Mạng lưới đường ống dẫn khí đốt khác của Nga tới Trung Á và Thổ Nhĩ Kỳ không mang lại tiềm năng phát triển tương tự nên khối lượng xuất khẩu khí đốt của Moscow bằng đường ống sẽ ổn định ở mức 50-60% so với trước khi bùng nổ xung đột ở Ukraine.
Điều đó khiến khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) chỉ chiếm 20% lượng khí đốt xuất khẩu của Nga trở nên “đắt hàng”.
Doanh số bán LNG của Điện Kremlin đang duy trì ở mức ổn định và EU tiếp tục là người mua chính (với 50% khối lượng) do chưa có lệnh cấm vận đối với việc bán LNG của Nga.
Đây chắc chắn là “mắt xích còn thiếu” trong các biện pháp trừng phạt của phương Tây.
"Bức màn sắt" mới
Tác giả Hubert Testard cho rằng, thật khó để có một tầm nhìn toàn cầu về việc những vị trí mà các công ty châu Âu và Mỹ để lại ở Nga đã bị chiếm giữ như thế nào. Nhưng hai ví dụ thường được trích dẫn nhất đã nêu bật vị thế của các công ty Trung Quốc.
Công ty phân tích MarkLine vừa thống kê thị trường ô tô Nga năm 2023. Theo đó, thị trường này đã giảm hơn một nửa kể từ năm 2021, từ 1,57 triệu xe mới được bán ra xuống còn 747.000 xe. Được quốc hữu hóa sau sự ra đi của nhà sản xuất ô tô Renault, thương hiệu Lada (thuộc tập đoàn AvtoVaz) hiện nắm giữ 37% thị trường ô tô nội địa.
Tuy nhiên, các thương hiệu Trung Quốc (Haval, Chery, Geely và Omoda) chiếm tổng cộng 42% thị trường Nga so với 14% vào năm 2022. Ngược lại, các thương hiệu Nhật Bản, Hàn Quốc hay châu Âu chỉ có tỷ lệ cận biên hoặc không có biến động gì.
Thị trường điện thoại thông minh Nga đã bị bốn thương hiệu Trung Quốc (Realme, Honor, Xiaomi và Tecno) chiếm 75% về số lượng vào năm 2023. Samsung hiện chỉ nắm giữ 12% thị trường và Apple 8%. Tuy nhiên, xét về mặt giá trị, Apple và Samsung vẫn chiếm khoảng 50% thị trường này.
Nhìn chung, nền kinh tế Nga hiện nay phụ thuộc vào thị trường châu Á, khi chỉ mất hai năm khu vực này đã chiếm lấy ngôi vị trước đó của châu Âu. Ngay cả khi xung đột Nga-Ukraine kết thúc, thực trạng này cũng khó có thể thay đổi.
Tác giả Hubert Testard nhận định: "Một 'bức màn sắt' mới đã buông xuống chia cắt toàn bộ châu Âu với Nga".