Nguyễn Tất Thành sinh ra ở vùng đất nằm ở hạ lưu Sông Lam của xứ Nghệ, nơi có bề dày truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, thường xuyên phải đương đầu với giặc dã, thiên tai. Vùng đất đó từng nổ ra cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan trong gần 10 năm, từ năm 713 - 722, quét sạch quân xâm lược nhà Đường ra khỏi bờ cõi nước ta, là phên dậu thời Đinh-Lê-Lý, là đất “Cối Kê” đời Trần, đất Thang Mộc đời Lê, đất Phượng Hoàng Trung Đô thời Nguyễn Huệ - Quang Trung.
Từ hào khí quê hương
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học nguồn gốc nông dân, khi Nguyễn Tất Thành cất tiếng khóc chào đời, khói lửa của phong trào Cần Vương ngùn ngụt ngày nào đã dần lắng lại. Những cuộc đàm đạo văn chương, về “quốc gia hữu sự” của thân phụ Anh với các vị túc nho, cảnh người dân bị sưu cao thuế nặng, cảnh người làng Sen bị bắt đi phu Cửa Rào trong tiếng khóc than ai oán… đã nhen lên trong tâm khảm Anh và người chị, người anh lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù quân cướp nước và lũ bán nước. Truyền thống vẻ vang của quê hương và gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến tuổi ấu thơ của Nguyễn Tất Thành, đến việc hình thành nhân cách, tư tưởng và sự lựa chọn con đường cứu nước sau này của Anh.
Bến Nhà Rồng - nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. |
Không chỉ vậy, ở quê hương Nghệ An còn có nhiều trí thức phong kiến trước Nguyễn Tất Thành đã nuôi chí lớn, tìm đường ra nước ngoài du học và hoạt động yêu nước. Đó là Nguyễn Trường Tộ, sinh năm 1828 tại Bùi Chu, Hưng Nguyên (cách làng Kim Liên của Nguyễn Tất Thành chưa đến 10 km), từng được Giám mục Gauthier (tên phiên âm tiếng Việt là Ngô Gia Hậu) đưa sang Hương Cảng, Singapore, Italy và học tập ở Pháp gần 2 năm. Về nước, ông nổi tiếng trong các lĩnh vực kiến trúc, quy hoạch, xây dựng và cả chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao. Ông từng gửi hàng chục bản điều trần tâm huyết lên triều đình nhà Nguyễn đề nghị canh tân đất nước.
Cách Kim Liên chưa đầy 20 km, ông Đặng Thúc Hứa từng sang Lào, Nhật Bản và Thái Lan hoạt động yêu nước, được mệnh danh là “Cố Đi” vì đi nhiều, vận động yêu nước nhiều, luôn tràn trề bầu máu nóng. Và ở rất gần Kim Liên, khoảng 4-5 km là làng Đan Nhiệm, có Phan Bội Châu, bạn tâm giao của cụ Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ của Nguyễn Tất Thành, một nhà yêu nước, nhà cách mạng, nhà văn hóa nổi tiếng, lãnh tụ của phong trào Đông Du, Duy Tân...
Đến hơi thở thời đại
Trong câu chuyện với nhà thơ Xô Viết Ôxíp Manđenstan tại Liên Xô năm 1923, Nguyễn Ái Quốc cho biết: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”… thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Khi cùng cha, mẹ và anh Khiêm vào Huế, Anh tham gia các cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tại kinh đô Huế vào năm 18 tuổi (1908). Chính ở nơi này, Anh thấy rõ nhất, sâu sắc nhất mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc và nhân dân mình.
Phan Bội Châu đi về phương Đông, nhưng một thực tế hiển nhiên và hết sức phũ phàng là nước Nhật “đồng chủng” đang phản bội người da vàng, xâm lược Trung Quốc, Triều Tiên, ra lệnh trục xuất chính ông và các du học sinh Việt Nam yêu nước. Cải cách của Khang, Lương ở Trung Quốc thất bại, cho thấy Trung Quốc không thể đi theo con đường Duy Tân của Nhật Bản. Cách mạng Tân Hợi (1911) của Tôn Văn tuy lật đổ được ngai vàng đế chế, nhưng đã không lật đổ được quyền chiếm hữu ruộng đất và ách bóc lột của địa chủ phong kiến, ách nô dịch của đế quốc tư bản nước ngoài.
Vào thời điểm này, Nguyễn Tất Thành rời Huế, vào Phan Thiết, rồi vào Sài Gòn để sang phương Tây, như sau này Người kể lại “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”.
Mấy tháng sau khi Nguyễn Tất Thành, với tên mới Văn Ba rời Sài Gòn, cách mạng Tân Hợi nổ ra thắng lợi, nhưng Anh không quay lại Trung Quốc. Anh vẫn kiên định sang Pháp, sang cái đất nước của những kẻ xâm lược và cai trị dân tộc mình. Theo Anh, muốn đánh đuổi thực dân Pháp thì phải biết nước Pháp là thế nào. Đó là một sự cân nhắc kỹ lưỡng, là sự lựa chọn có chủ đích. Đó cũng là một sự đổi mới, không chỉ về hướng đi, tầm nhìn mà cả về phương pháp nghiên cứu và hành động.
Và lựa chọn không phải ngẫu nhiên
Tuy nhiên, việc một số người Việt Nam lúc đó sang phương Tây, sang nước Pháp (kể cả chuyến đi của Nguyễn Tất Thành - Văn Ba) chưa hoàn toàn được coi là sự lựa chọn mang tính khoa học và cách mạng. Có nhiều trí thức Việt Nam đương thời cũng sang Pháp, có người chỉ lo học hành, kiếm sống, làm giàu, có người vừa học chữ, vừa tìm đường cứu nước, giúp dân. Luật sư, Tiến sĩ Phan Văn Trường và Phó bảng Phan Chu Trinh tiêu biểu cho nhóm thứ hai, nhưng các ông vẫn không tìm được con đường đúng đắn giải phóng dân tộc, không đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin như Văn Ba - Nguyễn Ái Quốc sau đó.
Trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc được hòa mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động khắp năm châu. Với bản tính thông minh, mẫn tiệp, nhạy cảm với cái mới, trăn trở, khát khao tìm con đường đúng đắn để cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc, gạn lọc, đón nhận những tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Tây: chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng, chủ nghĩa duy lý thế kỷ Ánh sáng, tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng Pháp, Anh, Mỹ…
Hơn 10 năm vừa vất vả lao động kiếm sống, vừa đau đáu tìm kiếm con đường cứu nước, cứu dân, Văn Ba - Nguyễn Ái Quốc càng nhận thức rõ: chủ nghĩa tư bản, bè lũ đế quốc, thực dân là những kẻ đã gây ra mọi áp bức, bóc lột, đau khổ cho mọi tầng lớp ở cả thuộc địa và ở ngay chính quốc. Theo Người: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ Ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.”(1)
Người khẳng định: “Muốn giải phóng dân tộc phải tự mình làm lấy”. Người tin tưởng ở con đường đi của mình, tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân, của dân tộc, của nhân loại. Điều này, rất khác với quan điểm của Phan Bội Châu, của Phan Chu Trinh, vượt qua những giáo lý Khổng, Mạnh hẹp hòi, duy tâm, vượt qua hạn chế của chủ nghĩa yêu nước cũ của các sĩ phu phong kiến và các nhà cách mạng có xu hướng dân chủ tư sản, tiểu tư sản đương thời.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến với chủ nghĩa cộng sản khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin và đón nhận Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đó không hề là sự may mắn ngẫu nhiên mà là một tất yếu khách quan mang tính khoa học và cách mạng. Chính Phan Chu Trinh, năm 1922, trong một bức thư đề ngày 18 tháng 2 gửi từ Marseille cho Nguyễn Ái Quốc đang ở Paris, đã ví Nguyễn Ái Quốc “như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hành, lý thuyết tinh thông… không bao lâu nữa cái chủ nghĩa anh tôn thờ (ý nói chủ nghĩa Mác - Lênin) sẽ thâm căn cố đế trong đám dân tình chí sỹ nước ta”(2).
“Người có tầm nhìn cao rộng và sâu xa, xuyên qua lịch sử, bao quát không gian, thấy sáng tương lai, mở ra những bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam từ cảnh nô lệ lầm than ra ánh sáng độc lập tự do, từ một đất nước ít ai biết đến trở thành người chiến sỹ tiêu biểu cho cả loài người tiến bộ yêu mến và khâm phục. Đó là tầm nhìn mang ý nghĩa chiến lược, nhìn thấy con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gặp gỡ và hòa nhập với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa quyện vào nhau trong không gian và thời gian, ở một nước và trên toàn thế giới”(3). Chuyến đi lịch sử ấy làm nên tên tuổi Việt Nam-Hồ Chí Minh, mở ra thời đại Hồ Chí Minh giàu chất anh hùng, thấm đẫm chất nhân văn.
--- (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập X, trang 126-128 (Bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin, đăng trên Tạp chí Các vấn đề phương Đông, Liên Xô, 1960, nhân kỷ niệm 90 năm Ngày sinh V.I. Lê-nin) (2) Bác Hồ với đất Quảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. (3) Lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại buổi gặp mặt với đại biểu cán bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh ngày 19 tháng 5 năm 1985.