Sức mạnh răn đe
Ngoại giao pháo hạm, đúng như nghĩa đen của nó, là dùng sức mạnh quân sự, ở đây cụ thể là sức mạnh tàu chiến nhằm đạt được các mục đích ngoại giao của mình. Ngoại giao pháo hạm được sử dụng phổ biến trong thời kỳ thực dân.
Cách đây đúng 150 năm, sau khi nhiều lần xin thông thương và tự do truyền đạo không được, ngày 1/9/1858, tàu chiến Pháp dưới sự yểm trợ của tàu chiến Tây Ban Nha, đã nổ súng tấn công cảng Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam. Trước đó không lâu, trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất (1840-1942), Anh dùng 16 chiến hạm để buộc Trung Quốc phải chấp nhận cho phép nha phiến của Anh được buôn bán tự do tại đây. Tại Nhật Bản, năm 1953, những người Mỹ cũng đã dùng chiến hạm nhằm buộc Nhật Bản phải mở cửa thông thương với nước này.
Trong hai cuộc Thế chiến I và II, các chiến hạm: tàu khu trục, tàu tuần dương, tàu ngầm và tàu sân bay đã chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc chiến. Bên cạnh các căn cứ quân sự ở nước ngoài, hải quân là cơ sở để các nước chứng minh sức mạnh và tầm ảnh hưởng của mình ở bên ngoài lãnh thổ. Sự ra đời của bom hạt nhân và tên lửa đạn đạo không làm mất đi vai trò của các chiến hạm, mà ngược lại, các tàu mang theo vũ khí hạt nhân đã trở thành phương tiện quân sự mang tính răn đe cao của các nước lớn.
Tuy nhiên, cùng với chính sách ngoại giao hạt nhân và sau đó là xu thế hòa bình, vai trò của các chiến hạm dần dần mờ nhạt đi. Hay nói đúng hơn, sự tan rã của Liên Xô (cũ) đã khiến lực lượng hải quân chính quy của Mỹ, NATO không còn một đối thủ ngang tầm. Các hạm đội của Mỹ không gặp bất cứ một trở ngại nào đáng kể trong các sứ mệnh của mình tại nước ngoài.
Cùng “đua”
Ngay sau khi cuộc chiến ở Gruzia nổ ra với ưu thế tuyệt đối nghiêng về phía Nga, NATO đã cử 4 tàu SPS Admiral Juan de Bourbon (Tây Ban Nha), FGS Luebeck (Đức), ORP General K Pulaski (Ba Lan) và khu trục hạm USS Taylor (Mỹ) thực hiện “chuyến thăm các cảng và diễn tập theo lịch trình” với các đối tác bên bờ Biển Đen như Romania và Bulgaria, bắt đầu từ 21/8. Sau đó, thêm ba tàu chiến khác của Mỹ là tàu USS Mount Whitney thuộc Hạm đội VI của Mỹ đóng ở Địa Trung Hải, khu trục hạm trang bị tên lửa USS McFaul và US Coast Guard Cutter Dallas thuộc lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ lần lượt tiến vào vùng lãnh hải của Gruzia.
Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov không ngần ngại tuyên bố: “Thông thường chiến hạm không chở hàng cứu trợ và đây là chính sách ngoại giao pháo hạm. Hành động này sẽ không làm tình hình thêm ổn định”. Hạm đội Biển Đen của Nga ngay lập tức được triển khai.
Sau khi các tàu của NATO và Mỹ rút khỏi Gruzia, phía Nga ra thông báo tuần dương hạm Peter Đại đế và ba tàu hộ tống thuộc hạm đội phương Bắc sẽ tới Nam Mỹ để tham gia tập trận với Venezuela. Điều này dường như nằm trong chiến lược tăng cường sự hiện diện của hải quân Nga tại nhiều vùng biển khác nhau được đưa ra năm 2007. Tuy nhiên, việc Mỹ khôi phục hoạt động của Hạm đội IV ở Caribe vào tháng 4, sau 58 năm ngừng hoạt động cho thấy, việc triển khai các tàu chiến của cả hai bên đang nhằm khẳng định sức mạnh và tăng cường ảnh hưởng tại khu vực này.
Bên kia trái đất, hạm đội Thái Bình Dương của Nga vừa liên tiếp tiến hành thử nghiệm các loại vũ khí mới, hạm đội VII của Mỹ duy trì các cuộc tập trận thường xuyên với các đối tác an ninh trong khu vực. Ít ồn ào hơn, tàu chiến của Australia cũng thường xuyên thực hiện các chuyến thăm tới các nước trong vùng.
Có phải là giải pháp?
Thực tế, ngoại giao pháo hạm chỉ mang lại hiệu quả nếu như một bên có sức mạnh vượt trội so với bên kia. Trong trường hợp hai bên có sức mạnh tương đương, hoặc ít nhất là sức hủy diệt tương đương, kết quả sẽ chỉ là sự căng thẳng và mất lòng tin.
Xu thế hòa bình, hợp tác vẫn đang là dòng chảy chính của quan hệ quốc tế, các hoạt động quân sự trên biển sẽ không đem đến một giải pháp khả thi nào cho các bất đồng và xung đột trong một thế giới hiện đại. Ngoại giao pháo hạm sẽ khó có thể phát huy được vai trò của mình như từng có trong lịch sử.
Thủy Trần