Nhỏ Bình thường Lớn

Nguyễn Duy Trinh: Không chỉ giỏi ngoại giao

Ít ai biết rằng, ông có lẽ là chính trị gia ký các văn bản nhanh nhất. 35 lần đặt bút ký vào các văn bản Hiệp định tại Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973, ông chỉ đề mỗi chữ “Trinh” - rõ ràng, dứt khoát nhưng cũng giản dị, mộc mạc như chính con người ông vậy. Ông là Nguyễn Duy Trinh, cố Phó Thủ tướng từng giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao lâu nhất của Việt Nam.

Vị Bộ trưởng không bao giờ cười to

Ông Lý Văn Sáu, nguyên cố vấn và người phát ngôn Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris năm 1973, người từng chứng kiến lễ ký kết Hiệp định Paris, không khỏi ngậm ngùi khi kể về cố Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh tại Hội thảo Đồng chí Nguyễn Duy Trinh và sự nghiệp Ngoại giao nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (15/7/1910-15/7/2010). Trong mắt ông Sáu, nhà lãnh đạo mặc bộ quần áo màu nâu, nghiện món cà pháo xứ Nghệ quê hương luôn là một hình ảnh rất gần gũi với những người xung quanh. Đặc biệt, ông là người rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác.

Tinh thần lắng nghe, kể cả với những người cấp dưới, của Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh được nhiều người chia sẻ. Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, người nhiều năm làm việc trực tiếp dưới quyền ông Trinh, kể: Bộ trưởng có trí nhớ tuyệt vời, thuộc lòng các đoạn lý luận kinh điển trong tuyển tập Mác-Lênin. Ông luôn “suy nghĩ, phân tích và lắng nghe người khác không kể là ai”. Ông Cầm còn tiết lộ chuyện Bác Hồ ba lần mời Nguyễn Duy Trinh làm ngoại giao. Ông Trinh không muốn chuyển sang làm Ngoại giao vì lúc đó đã quen làm kinh tế trên cương vị Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước. Nhưng sau hai lần gặp Bác Hồ để từ chối và được Bác khuyên “về suy nghĩ”, ông đã nhận lời, và cái gật đầu của ông đã dẫn tới nhiều thành tựu ngoại giao sau này.

Ông Hà Đăng, nguyên Ủy viên TW Đảng, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa TW thì cho biết, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh luôn nhấn mạnh với những người cấp dưới là không được sa vào kể tình hình mà phải phân tích, đánh giá tình hình; không phải liệt kê, thống kê thương vong mà phải phân tích được âm mưu phá hoại của địch và nhận định được xu thế…

Bất cứ ai tiếp xúc với Nguyễn Duy Trinh đều ấn tượng ở ông vì tính cẩn thận, điềm tĩnh, không nổi nóng cũng như không bao giờ “cười to, cười ha hả”. Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan kể rằng, lần đi dịch cho Bộ trưởng tại Hội nghị Paris, tất cả đã sẵn sàng nhưng chờ mãi mà máy bay không cất cánh, trong khi thời điểm ký kết hiệp định đang đến gần, vì không có visa. Hỏi mãi mới biết nguyên nhân là do nhân viên lãnh sự tưởng máy bay cất cánh từ sân bay khác cách đó cả trăm kilômet, nên đã mang visa đến đó. Bộ trưởng giận, và lần đầu tiên ông Khoan hiểu được “giận tím mặt” là như thế nào. Thế nhưng, khi Tham tán công sứ vào chào trước khi đoàn đi, ông chỉ nói: “Làm với ăn!”.

Với ông Nguyễn Duy Tộ, con trai thứ hai của Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh thì dù thời gian ở bên người cha đáng kính không nhiều, nhưng rất ấn tượng về tính cẩn thận của ông. Thấy tờ báo có ảnh Bác Hồ bị để hơi nhàu hoặc làm giấy gói, ông nhắc nhở các con rằng ảnh của lãnh tụ phải được để ở vị trí trang trọng. Đi từ nhà ra cửa nếu thấy một cọng rác ông cũng cúi xuống nhặt bỏ vào thùng. Một cuốn sách đặt sai vị trí ông cũng tự tay xếp lại. Thương con, ông nhường suất ăn riêng của mình và ăn rất ít. Thấy đồ tráng miệng quá đắt ông cũng không ăn nữa. Dù sống xa quê nhưng ông vẫn giữ được những thói quen của người xứ Nghệ như ăn khoai, cà muối hay những món mặn mặn như các loại mắm…

Vị tư lệnh ngoại giao

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã gọi ông như vậy trong Hội thảo. Là một trong những học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh là nhà ngoại giao uyên thâm mà tên tuổi gắn liền với nhiều hoạt động ngoại giao sôi nổi nhưng cũng đầy cam go và quyết liệt của Đảng và Nhà nước ta trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông đóng góp tích cực vào việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế trong hoàn cảnh có sự bất đồng sâu sắc trong phe XHCN. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh, ngoại giao đã trở thành một mặt trận và phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính trị, quân sự; vừa đánh vừa đàm; phối hợp nhịp nhàng đấu tranh ngoại giao của hai miền Nam - Bắc, và nghệ thuật đàm phán của ngoại giao Việt Nam mà đỉnh cao là việc ký kết Hiệp định Paris năm 1973.

Trong thời kỳ xây dựng lại đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh tàn phá, ngành ngoại giao Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Duy Trinh, vừa tranh thủ sự hỗ trợ của các nước XHCN và cộng đồng thế giới, vừa đấu tranh chống bao vây cấm vận. Chính trong thời kỳ khó khăn ấy, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Liên hợp quốc, đánh dấu việc cộng đồng thế giới công nhận tính pháp lý và tư cách đại diện của Nhà nước ta tại tổ chức đa phương lớn nhất toàn cầu này. Cũng chính ông đã kiến tạo các chuyến thăm của lãnh đạo nước ta với các nước trong khu vực, dẫn tới việc Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN.

15 năm làm Bộ trưởng Ngoại giao, nhưng ông đã có đến 40 năm hoạt động đối nội, từ bí mật đến công khai, từ ngoại giao đến kinh tế, từ cơ sở đến Trung ương, từ Đảng đến Chính phủ. Nguyễn Duy Trinh làm đối ngoại đạt đến “kỹ năng ngoại giao đương đại của loài người”, như nhận xét của ông Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Sau năm 1975, trước yêu cầu mới của đất nước, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh đã sớm nêu ra nhiệm vụ ngoại giao phục vụ khôi phục và phát triển kinh tế. Về xây dựng Ngành, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh đã đề xuất xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ cấp Vụ trẻ (1978) và qua hoạt động thực tiễn, đã đào tạo nhiều cán bộ ngoại giao giỏi cho đất nước.

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cho rằng, với một người hoạt động chính trị trên cương vị đặc biệt về cả chính trị, kinh tế, ngoại giao, khoa học như Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh, nên tổ chức một hội thảo “Nguyễn Duy Trinh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam” chứ không chỉ trong ngành ngoại giao.

Kim Chung