Trong Báo cáo yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của các NHTM Nhà nước cho mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, Trung tâm Nghiên cứu Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam (BIDV), tính đến hết năm 2015, xét trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam, khu vực ngân hàng đang chiếm tỷ trọng rất lớn với tổng tài sản chiếm tới 75% tổng tài sản hệ thống tài chính, trong đó, tổng dư nợ tín dụng hệ thống cung cấp cho nền kinh tế lên tới 4.656 nghìn tỷ đồng, bằng 111% GDP. Với quy mô lớn như vậy, nguồn tín dụng ngân hàng đang đóng vai trò là kênh dẫn vốn chính của nền kinh tế với tỷ trọng chiếm khoảng 40-45% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Hệ số an toàn bị đe dọa
Đến cuối năm 2015, khối Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) gồm bốn ngân hàng Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank chiếm 45% tổng tài sản, 50,2% tổng dư nợ tín dụng và 46,3% nguồn vốn huy động của toàn hệ thống tài chính. Trong giai đoạn 2011-2015, khối NHTMNN đã đóng góp chính vào tăng trưởng toàn ngành với mức tăng trưởng tổng tài sản bình quân ở mức 13,8%/năm cao hơn mức 10,3%/năm của toàn hệ thống, tăng trưởng tín dụng ở mức 17,1%/năm so với mức 13,5%/năm toàn ngành.
Vai trò của các NHTMNN được thể hiện rõ nét trong giai đoạn tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém. Theo đó, các NHTMNN không những hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình mà còn tích cực tham gia định hướng, dẫn dắt thị trường, đi đầu trong thực hiện các biện pháp chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước.
Nguồn tín dụng ngân hàng chiếm khoảng 40-45% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. (Nguồn:Internationalbanker) |
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vai trò đối với nền kinh tế, năng lực tài chính của khối NHTMNN thể hiện qua hệ số an toàn vốn (CAR) bị suy giảm nghiêm trọng. Cụ thể, giai đoạn 2011-2015, tài sản có rủi ro của khối NHTMNN tăng trưởng trung bình ở mức 19,4%/năm, cao hơn mức tăng 15,43%/năm của vốn tự có, dẫn đến CAR của khối giảm từ mức 10,8% năm 2011 xuống mức 9,4% hiện nay - gần chạm ngưỡng tối thiểu 9% theo quy định của NHNN, thấp hơn mức bình quân của ASEAN là 10,3% (đồng thời tiêu chuẩn tính của Việt Nam thấp hơn).
Theo phân tích của Trung tâm nghiên cứu BIDV, tình trạng vốn tự có tăng không đủ bù đắp mức tăng TSCRR của khối NHTMNN làm suy giảm CAR chủ yếu do hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là khả năng sinh lời của các NHTMNN bị co hẹp do đi đầu trong triển khai các chương trình, chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ (lãi suất cho vay thấp khoảng 7% trong khi lãi suất huy động theo giá thị trường 4-5%, đồng thời trung bình dư nợ các chương trình trong tổng dư nợ cũng ở mức cao như BIDV lên đến…). Nguyên nhân thứ hai, trong giai đoạn ngành ngân hàng Việt Nam triển khai nhiều biện pháp để áp dụng các chuẩn mực thông lệ quốc tế đã làm giảm tốc độ tăng vốn tự có và vừa làm tăng tốc độ tăng tài sản có rủi ro so với trước đây, từ đó tác động tiêu cực đến CAR.
Tình trạng nan giải
Với thực trạng trên, đến cuối năm 2015, CAR của khối NHTMNN đang ở mức 9,4% và chỉ còn lại 0,4% dư địa để tăng trưởng tài sản có rủi ro trước khi chạm ngưỡng quy định. Điều đó đặt ra yêu cầu phải giải quyết tình trạng suy giảm năng lực tài chính đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Tuy nhiên, theo Trung tâm nghiên cứu BIDV, các NHTMNN đang trong tình trạng nan giải khi thực hiện các giải pháp tăng vốn nhằm đảm bảo năng lực tài chính.
Đối với việc tăng vốn từ giải pháp giảm chi trả cổ tức, trong điều kiện các giải pháp tăng vốn khác chưa thực hiện được ngay thì việc tăng vốn từ nguồn lợi nhuận tạo ra của năm 2015 và 2016 là giải pháp thuận lợi nhất cho các ngân hàng, tuy nhiên giải pháp này đang gặp vướng mắc từ cơ quan quản lý Nhà nước. Theo Thông tư 61/2016/TT- Bộ Tài chính yêu cầu phải chuyển toàn bộ cổ tức của cổ đông nhà nước về Ngân sách Nhà nước. Ở khía cạnh khác, dường như các NHTMNN ngoài chức năng thực hiện Chính sách tiền tệ vốn đã rất nặng nề, đang phải gánh thêm áp lực từ chính sách tài khóa.
Về giải pháp tăng vốn từ phát hành thêm cổ phần cho nhà đầu tư hiện hữu, thu hút thêm nhà đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, BIDV cho rằng đây là giải pháp không dễ dàng thực hiện trong ngắn hạn và sự thành công của giải pháp còn phụ thuộc vào hai yếu tố là mức độ quan tâm của nhà đầu tư và điều kiện thị trường. Đối với yếu tố thứ nhất, hiện nay tâm lý chung của hầu hết các nhà đầu tư đều đánh giá việc đầu tư vào các NHTMNN là khá rủi ro do năng lực tài chính hạn chế. Đối với yếu tố thị trường, hiện nguồn vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán chưa thực sự tốt, việc thu hút nguồn vốn từ nước ngoài cũng khó khăn do xu hướng chung dòng vốn đầu tư quốc tế đang trở lại Mỹ, và ngay cả khi lựa chọn được nhà đầu tư để tăng vốn thì các NHTMNN vẫn còn gặp phải nhiều rào cản.
Giải pháp tăng vốn từ giải pháp thực hiện tiết kiệm chi phí quản lý, mở rộng các nguồn thu ngoài lãi, BIDV đánh giá giải pháp này chỉ bù đắp được một phần nhỏ nhu cầu tăng vốn.
Tăng vốn từ nguồn bổ sung ngân sách nhà nước là giải pháp cơ bản nhất, phù hợp nhất trong tình hình hiện nay theo kinh nghiệm các nước trên thế giới và cũng đã được Ngân hàng Nhà nước cam kết xem xét để thực hiện. Tuy nhiên, theo BIDV, đến nay giải pháp này vẫn chưa có kết quả. Nguyên nhân cơ bản vẫn là điều kiện ngân sách hiện nay đang eo hẹp và không cho phép thực hiện. Ngoài ra, việc tăng vốn từ việc tăng khả năng sinh lời và thực hiện điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản giúp giảm tài sản có rủi ro, theo BIDV cả 2 giải pháp này đều không khả thi đối với các NHTMNN hiện nay, do phải thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đất nước, khiến việc cấu trúc lại tài sản có rủi ro hay tăng lãi suất là không thực hiện được.