Vậy nội dung công thư năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là gì? Ý nghĩa pháp lý của công thư này đối với chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ra sao?
Hoàn cảnh đặc thù
Về bối cảnh ra đời của Công thư 1958, các nhà chức trách và các nhà nghiên cứu Việt Nam đã chỉ rõ, Công thư do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ra đời trong bối cảnh Chính phủ Mỹ gia tăng can thiệp vào Việt Nam. Từ năm 1956, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía Bắc tranh thủ sức mạnh của quốc tế, tập trung giải phóng miền Nam. Trung Quốc là một trong những chính quyền thuộc phe xã hội chủ nghĩa tích cực ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Giai đoạn này, Trung Quốc cũng đứng trước nguy cơ chia cắt lãnh thổ. Tháng 5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Hạm đội 7 của Mỹ tiến vào eo biển Đài Loan để bảo hộ hòn đảo này mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Với quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công các hòn đảo như Kim Môn, Mã Tổ tạo ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.
Trong thế giằng co, tháng 8/1958, Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn dẫn đến cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Mỹ tiếp tục điều Hạm đội 7 đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến Kim Môn và Mã Tổ.
Cũng trong năm 1958, Hội nghị Công ước Luật biển lần thứ nhất của Liên hợp quốc (LHQ) nhóm họp trong bối cảnh những tranh cãi về vùng lãnh hải giữa các quốc gia gia tăng. Phía Mỹ cho rằng lãnh hải chỉ có chiều rộng 3 hải lý còn một số quốc gia khác ủng hộ quan điểm lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý. Ngày 29/4/1958, LHQ thông qua bốn Công ước gồm: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Hạn chót để các quốc gia là thành viên của LHQ có thể ký nhận các công ước này là ngày 31/10/1958.
Vì vậy, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã đưa ra một Tuyên bố để khẳng định chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý và bảo vệ lãnh thổ của Trung Quốc trước nguy cơ tấn công của Mỹ.
Với tinh thần ủng hộ quốc gia thuộc phe xã hội chủ nghĩa đã tích cực ủng hộ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công thư ngày 14/9/1958, một cử chỉ ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.
Toàn văn công thư thể hiện: "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển".
Giá trị pháp lý như thế nào?
"Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thật ra là một bức công điện", Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Công an trả lời như vậy với tờ Tuổi trẻ. "Mục đích của nó không liên quan đến việc xác định chủ quyền. Nên nhớ vào năm 1958, tiềm lực quốc phòng của Mỹ ở thế áp đảo, gấp 10 lần tiềm lực quốc phòng của Trung Quốc. Tàu chiến của Mỹ suốt ngày hành trình ở bờ biển Phúc Kiến (Đài Loan), thậm chí chĩa pháo vào Trung Quốc. Việt Nam khi đó là đồng minh của Trung Quốc. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng do đó chuyển tải thông điệp là 25 triệu người Việt Nam đứng bên cạnh 650 triệu người Trung Quốc. Đó là tinh thần thực chất".
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt, thành viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông kiêm cố vấn học thuật của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa cho rằng Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mang một sự cam kết về mặt chính trị hơn là về pháp lý và đây cũng là một hình thức mà các nước xã hội chủ nghĩa thường sử dụng để thể hiện tinh thần anh em trong phong trào vô sản quốc tế.
Khi đưa ra lập luận để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc thường viện đến Công thư 1958 như một bằng chứng về cơ sở pháp lý. Nhưng rõ ràng, về mặt pháp lý, Công thư năm 1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký chỉ là một tuyên bố đơn phương, nhằm mục đích trả lời Tuyên bố về vùng lãnh hải rộng 12 hải lý của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Công thư cũng không nêu tên bất cứ quần đảo nào. Rõ ràng, việc Trung Quốc suy diễn với Công thư 1958 rằng Việt Nam đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này hoàn toàn không có cơ sở.
Theo các chuyên gia luật pháp quốc tế, việc giải thích ý chí của một quốc gia trong một tuyên bố đơn phương cần phải được diễn giải một cách thận trọng và đối tượng của sự cam kết trong tuyên bố đơn phương đó phải được xác định chính xác. Các yêu sách về lãnh thổ trong luật quốc tế, cũng như sự từ bỏ các yêu sách đó phải được trình bày một cách rõ ràng và không có suy diễn. Công thư do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký không chứa đựng bất kỳ sự từ bỏ rõ ràng nào về chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa. Thêm nữa, với các sự chuyển nhượng lãnh thổ, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không có thẩm quyền quyết định mà phải do cơ quan quyền lực tối thượng ở Việt Nam là Quốc hội quyết định.
Hơn nữa, theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, với các quy định trong Hiệp định Geneva năm 1954 thì lúc này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại song song hai quốc gia, từ vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn từ vĩ tuyến 17 trở vào phía Nam là lãnh thổ thuộc Việt Nam Cộng hòa. Hoàng Sa, Trường Sa đều nằm ở phía Nam của vĩ tuyến 17, vì thế về mặt pháp lý, hai quần đảo này là đối tượng quản lý của Việt Nam Cộng hòa và vì thế, những tuyên bố của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với Hoàng Sa, Trường Sa vào thời điểm này là không có giá trị pháp lý./.
"Công thư của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là văn bản ngoại giao, nó có giá trị pháp lý về những vấn đề được nêu trong nội dung, đó là Việt Nam tôn trọng 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Công thư không đề cập chủ quyền lãnh thổ, vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa nên đương nhiên nó không có giá trị pháp lý trong vấn đề chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa. giá trị công thư cũng phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi cho Trung Quốc trong bối cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam cộng hòa theo Hiệp định Genève 1954 mà Trung Quốc có tham gia. Do đó, tôi xin nói logic thông thường là bạn không thể cho người khác cái gì khi bạn chưa có được". (Ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao). |
THẢO NGUYÊN (tổng hợp)