Năm 2015 đánh dấu 70 năm ngày thành lập ngành Ngoại giao Việt Nam. |
Đại hội XI của Đảng cũng đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” và đã được cụ thể hóa bằng Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, trong đó xác định “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi”.
Năm năm qua (2011 – 2015), chúng ta triển khai nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, phức tạp và khó lường hơn. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự kiến, một số đối tác kinh tế lớn của chúng ta gặp khó khăn, giá cả một số mặt hàng, nhất là giá dầu, giảm sâu. Cạnh tranh và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, khủng bố quốc tế và bệnh dịch có xu hướng trầm trọng hơn. Một số vấn đề khu vực, nhất là tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo căng thẳng hơn giai đoạn trước.
Kiên định mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh”1, trên cơ sở thế và lực của đất nước từng bước được nâng cao, phát huy các thành tựu đối ngoại trong 25 năm Đổi mới, công tác đối ngoại năm năm qua tiếp tục đạt được nhiều thành tựu, trong đó nổi bật là các thành tựu sau:
Thứ nhất, chúng ta đã giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả.
Hòa bình, ổn định là tiền đề cho sự phát triển bền vững của đất nước. Để bảo đảm điều kiện đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là không ngừng củng cố hợp tác hữu nghị và làm sâu sắc các mối quan hệ đối ngoại, tăng cường đan xen lợi ích, phát huy điểm đồng, giảm thiểu khác biệt trong quan hệ với mỗi đối tác. Bên cạnh việc tiếp tục củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt với Lào, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Campuchia, các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các nước XHCN và bạn bè truyền thống, kết quả nổi bật của đối ngoại năm năm qua là đã hoàn thành việc xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác với hầu hết các nước có ảnh hưởng lớn ở khu vực và trên thế giới. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, chúng ta đã thiết lập thêm quan hệ đối tác chiến lược với tám nước(2) trong tổng số 15 nước đối tác chiến lược đã được xây dựng trong 15 năm qua(3), nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện hoặc sâu rộng với hai nước(4), lập quan hệ đối tác toàn diện với ba nước(5) trong tổng số mười nước đối tác toàn diện(6), trong đó có cả năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Được xây dựng trên nền tảng quan hệ bình đẳng, tôn trọng luật pháp quốc tế, thể chế chính trị, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, các khuôn khổ đó đã đưa quan hệ của ta với các đối tác, nhất là các đối tác hàng đầu như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga, Nhật, EU, các nước cùng trong Cộng đồng ASEAN… đi vào khuôn khổ ổn định, đồng thời mang lại ngày càng nhiều lợi ích về kinh tế, thương mại, đầu tư, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa… Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới và kinh tế đất nước còn khó khăn, chúng ta đã tranh thủ được mạng lưới đối tác để phục vụ thiết thực ngay cho mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định, tái cơ cấu nền kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài… Quan hệ với các đối tác hàng đầu không chỉ phát triển mạnh trên kênh Nhà nước, Chính phủ, mà còn được đẩy mạnh trên cả kênh Đảng, Quốc hội, với nhiều hoạt động cấp cao vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa có nhiều nội dung hợp tác thực chất, hiệu quả. Đây là một trong những biểu hiện sinh động của việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Các đại biểu tham dự Lễ thượng cờ ASEAN tại trụ sở Bộ Ngoại giao sáng 31/12/2015. |
Thứ hai, công tác đối ngoại đã đóng góp tích cực và việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Năm năm qua, chúng ta ngày càng chủ động, tích cực trong việc đàm phán và ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Giai đoạn 2013–2015 là giai đoạn cao điểm trong đàm phán, ký kết các FTA của Việt Nam. Ta đã hoàn thành ba FTA song phương với các đối tác quan trọng của Việt Nam, bao gồm FTA với Hàn Quốc (5/2015), FTA với Liên minh Kinh tế Á-Âu (5/2015) và FTA với Liên minh châu Âu (12/2015). Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết và tham gia 11 FTA khu vực và song phương, trong đó có sáu FTA trong khuôn khổ hợp tác ASEAN. Đặc biệt, đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam đã tích cực triển khai các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thành viên có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp trong Lộ trình AEC.
Tháng 10/2015, ta đã cùng các nước thành viên kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ta cũng tiếp tục đàm phán hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm đạt được một thoả thuận kinh tế toàn diện, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và các nước ASEAN.
Ở cấp độ toàn cầu, tại Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tháng 12/2013, Việt Nam đã cùng với các thành viên WTO thông qua “Gói cam kết thương mại Bali”, khai thông bế tắc trong đàm phán trong khuôn khổ WTO đã kéo dài nhiều năm.
Cho đến giữa năm 2015, ta có quan hệ kinh tế-thương mại với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút trên 250 tỷ USD đầu tư nước ngoài (FDI). Trong năm năm qua, chúng ta đã vận động được thêm 36 đối tác mới, nâng tổng số đối tác chính thức công nhận quy chế kinh tế thị trường ở nước ta lên 59. Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã đóng góp tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút khách du lịch, đấu tranh chống những hành động gian lận thương mại, áp đặt các rào cản thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và nhà nước ta.
Thứ ba, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Năm năm qua, công tác biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia đều có tiến triển. Với Trung Quốc, hai bên đã ký Hiệp định quy chế tàu thuyền đi lại tại khu vực tự do đi lại ở cửa sông Bắc Luân và Hiệp định khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc. Chúng ta đã chủ động và tích cực duy trì đàm phán về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm và bàn bạc về hợp tác cùng phát triển. Hai bên đã đạt được “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”. Ngày 19/12/2015, hai bên đã khởi động khảo sát chung tại một số khu vực thỏa thuận ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, chuẩn bị triển khai một số dự án về hợp tác ít nhạy cảm trên biển để thực hiện mục tiêu phân định và hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Với Lào, hai bên hoàn thành dự án tăng dày tôn tạo hệ thống mốc giới, đạt được nhiều thỏa thuận trong việc phát triển đường biên giới hòa bình, hữu nghị. Với Campuchia, hai bên đã hợp tác tốt giữ gìn an ninh, trật tự và giải quyết ổn thỏa các vấn đề phát sinh ở khu vực biên giới; tiếp tục công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (hiện đã đạt trên 80%).
Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, đối ngoại đã thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sử dụng linh hoạt, triệt để các biện pháp chính trị - ngoại giao, mọi kênh đối thoại, tiếp xúc ở các cấp độ song phương và đa phương, khu vực và quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời chủ động tranh thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khôi phục lòng tin, thúc đẩy hợp tác hữu nghị, nỗ lực đối thoại nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông. Chúng ta đã tranh thủ được công luận quốc tế lên tiếng ủng hộ lập trường chính nghĩa của Việt Nam, bác bỏ các yêu sách vô lý, phản đối các hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng, vi phạm luật pháp quốc tế, nhằm duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và khu vực. Trong những năm qua, vấn đề Biển Đông là chủ đề được quan tâm và nêu trong nhiều Tuyên bố, văn kiện của nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương như ASEAN, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Nhóm nước G-7, EU…
Đối với các thế lực lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước, chúng ta đã sử dụng nhiều biện pháp, kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa, bảo vệ hệ giá trị Việt Nam. Năm năm qua, chúng ta đã chủ động tổ chức các cuộc đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế về các vấn đề này. Chúng ta cũng đã tăng cường công tác thông tin cho cộng đồng quốc tế về thực tế quá trình xây dựng và triển khai chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực này. Công tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy lùi và vô hiệu hóa các âm mưu và hành động chống phá Đảng và Nhà nước ta trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo.
Năm năm qua, nhiều hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm chia sẻ thông tin, tăng cường năng lực xây dựng và thực thi pháp luật cũng được mở ra, tạo cơ sở cho các đối tác hiểu rõ hơn những chuyển biến về chính sách và thực thi chính sách ở Việt Nam.
Thứ tư, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông qua việc nâng tầm đối ngoại đa phương từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Việt Nam đóng góp nhiều sáng kiến quan trọng tại các diễn đàn đa phương có tầm ảnh hưởng lớn như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, ASEM, hợp tác tiểu vùng Mekong… Vị thế của đất nước được nâng lên đáng kể với việc chúng ta đăng cai thành công Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132, đóng góp tích cực cho Liên hợp quốc trong việc xây dựng và thông qua Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững, được các nước tin cậy bầu với số phiếu cao vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban kinh tế - xã hội Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2016-2018, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, lần đầu tiên tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (PKO).
Công tác đối ngoại đạt được những thành tựu kể trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Những thành tựu quan trọng này còn là kết quả của sức mạnh đoàn kết dân tộc, nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của các cán bộ làm công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và đối ngoại nhân dân; sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành và địa phương; sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả các bài học lớn còn nguyên giá trị thời đại của ngoại giao Việt Nam hiện đại, đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Đại hội Đảng lần thứ XII sẽ thông qua những định hướng và nhiệm vụ chính cho công tác đối ngoại trong năm năm tới. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại tiếp tục là duy trì và củng cố vững chắc hơn môi trường an ninh và kinh tế đối ngoại, đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu và củng cố vững chắc vị thế của Việt Nam trong cộng đồng khu vực và quốc tế. Đây là những nhiệm vụ quan trọng đối với toàn Đảng và toàn dân ta. Việc hoàn thành các nhiệm vụ trên có thể gặp nhiều khó khăn, thách thức hơn khi bối cảnh khu vực và thế giới vẫn tiếp tục phức tạp và chuyển biến rất nhanh. Với thế và lực của đất nước sau 30 năm Đổi mới và kiên định phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc, dựa vào nền tảng tư tưởng hòa hiếu của dân tộc xây dựng sự đồng lòng nhất trí trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, và luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại, công tác đối ngoại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh và thích ứng nhanh trước những biến chuyển của tình hình, tiếp tục đóng vai trò là mặt trận hàng đầu trong việc giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG – 2011, trang 236.
(2) Đức, Italy, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Pháp, Malaysia và Philippines.
(3) 15 nước có quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam: Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Italy, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Pháp, Malaysia và Philippines.
(4) Quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Nga và quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản.
(5) Ukraine, Hoa Kỳ và Đan Mạch.
(6) 10 nước có quan hệ Đối tác toàn diện với Việt Nam: Hoa Kỳ, Đan Mạch, Australia, New Zealand, Brazil, Chile, Venezuela, Argentina, Ukraine, Nam Phi.