Thành tựu hội nhập quốc tế 10 năm qua khẳng định Nghị quyết số 22-NQ/TW là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, thống nhất nhận thức và hướng dẫn hành động thực tiễn trong một giai đoạn cách mạng. (Nguồn: dangcongsan.vn) |
Cột mốc của tư duy mới về hội nhập
Sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” (2001-2011), Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những hạn chế cả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Hạn chế lớn nhất là chưa gắn kết chặt chẽ giữa hội nhập kinh tế với hợp tác về quốc phòng, an ninh và ngược lại.
Thận trọng giới hạn trong hội nhập kinh tế sẽ khó tiến xa. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn và những vấn đề mới về tư duy, lý luận, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 22-NQ/TW đề ra mục tiêu đồng bộ, toàn diện: Củng cố môi trường hòa bình; tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh, bền vững; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế… Đồng thời, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới1.
Quan điểm cơ bản, cốt lõi của Nghị quyết là: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tực chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc… Nhấn mạnh vai trò, mối quan hệ giữa các lĩnh vực: Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế…; thực hiện đồng bộ trong một chiến lược tổng thể. Khẳng định hội nhập quốc tế là “định hướng chiến lược lớn của Đảng”; “là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh”1.
Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, định hướng chủ yếu của Nghị quyết số 22-NQ/TW kế thừa Nghị quyết trước; quán triệt, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm; giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh và các vấn đề thực tiễn đặt ra. Đồng thời, đề cập đồng bộ, toàn diện, phát triển nhiều nội dung mới; thể hiện sâu sắc vai trò hội nhập quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vị thế của Việt Nam đối với thế giới.
Đặt trong bối cảnh lúc đó càng thấy rõ sự cấp thiết, ra đời đúng lúc của Nghị quyết số 22-NQ/TW. Nhờ vậy, lý luận và thực tiễn hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ, cả bề rộng và chiều sâu. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thành tựu hội nhập quốc tế 10 năm qua (2013-2023) khẳng định Nghị quyết số 22-NQ/TW là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, thống nhất nhận thức và hướng dẫn hành động thực tiễn trong một giai đoạn cách mạng.
Nghị quyết đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ về tư duy, chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Đây không những là mở rộng phạm vi, lĩnh vực, tính chất hội nhập quốc tế mà còn thể hiện vị thế mới, tính chủ động, tích cực của Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa. Nghị quyết là một cột mốc, đặt nền móng cho nền ngoại giao toàn diện, sâu sắc trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thành tựu, hạn chế và những bài học kinh nghiệm
Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XIII đánh giá: Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Hội nhập quốc tế tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín và vai trò của Việt Nam trong khu vực, trên thế giới ngày càng cao2.
Bên cạnh thành tựu, hội nhập quốc tế trong 10 năm qua cũng còn những hạn chế, yếu kém. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt, có lúc chưa theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết những tác động bất lợi. Chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ lợi ích đan xen với các đối tác quan trọng2. Kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại trong hội nhập quốc tế có thời điểm thiếu hiệu quả, còn biểu hiện chủ quan, chạy theo lợi ích cục bộ ngành.
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế là: Việc quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết có lúc có nơi chưa sâu, chưa nghiêm. Nhận thức và năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ, nhân viên tham gia hội nhập quốc tế có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược và tham mưu đề xuất có lúc chưa chủ động, kịp thời. Công tác phối hợp, điều hành các ngành, lĩnh vực theo chiến lược tổng thể có mặt, có thời điểm chưa chặt chẽ.
Thực tiễn thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW kết tinh nhiều bài học quý báu. Nổi lên là: Giữ vững độc lập, tự chủ là nền tảng để mở rộng hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, gắn với lợi ích chung của khu vực, thế giới; tôn trọng lợi ích chính đáng của quốc gia khác. Nhân tố quyết định hiệu quả đưa Nghị quyết vào cuộc sống là đổi mới thể chế, phát triển nguồn nhân lực, thiết lập bộ máy đủ năng lực chỉ đạo, điều hành, phối hợp hoạt động và xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp quy.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh quan điểm và định hướng về hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Giai đoạn mới, vấn đề mới, yêu cầu mới
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục biến động, thay đổi nhanh chóng, khó lường, khó dự báo. Cạnh tranh, đối đầu, nguy cơ xung đột, chiến tranh gia tăng phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng bị thách thức bởi sự cạnh tranh, đối đầu, xung đột giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sự gia tăng của chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế và các lệnh trừng phạt. Gia tăng “cọ xát” giữa trật tự thế giới đơn cực với trật tự thế giới đa cực đang từng bước hình thành. Luật pháp quốc tế và thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Tình hình mới đặt ra yêu cầu phải mở rộng hội nhập quốc tế về không gian, lĩnh vực, đưa hội nhập lên một tầm mức mới với mức độ sâu sắc, hiệu quả cao hơn, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững và thực hiện kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và các tổ chức thế giới, khu vực mà mình là thành viên.
Tuy nhiên, thực tiễn lại nảy sinh những vấn đề phức tạp mới. Nước lớn có thủ đoạn tinh vi, lợi dụng hội nhập quốc tế để can dự, gây sức ép, tác động lên đường lối chính trị, đối ngoại của các nước khác. Quan hệ quốc tế đan xen những xung đột, lợi ích chiến lược. Nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và mở rộng, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế phức tạp hơn; xuất hiện những tình huống nhạy cảm, tình huống phải chọn bên trong quan hệ song phương, đa phương…
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh quan điểm và định hướng về hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Trên cơ sở quan điểm cơ bản “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Nghị quyết nhấn mạnh “giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia…”2.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra định hướng hội nhập quốc tế, coi trọng, phát huy vai trò hội nhập kinh tế, quốc phòng, an ninh, đồng thời mở rộng và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa… Nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước. Đồng thời, Nghị quyết cũng nhấn mạnh chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế2.
Đây là cơ sở quan trọng nhất để quán triệt, cụ thể hóa, bổ sung, hoàn chỉnh Nghị quyết về hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới.
Tổng kết, cơ hội để nhìn lại, hoàn chỉnh và phát triển
Thực tiễn cho thấy, đến nay, nhiều nội dung của Nghị quyết số 22-NQ/TW “về hội nhập quốc tế” vẫn là những định hướng quan trọng. Tuy nhiên, trong giai đoạn mới, bối cảnh tình hình, môi trường, điều kiện có nhiều thay đổi. Hội nhập quốc tế là một quá trình liên tục vận động và phát triển. Khi tình hình thay đổi, tất yếu quan điểm, đường lối chính sách, chiến lược hội nhập quốc tế cũng phải đổi mới, phát triển phù hợp với bối cảnh thế giới, tình hình đất nước.
Do đó, cần tổng kết toàn diện, sâu sắc quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW; đánh giá khách quan kết quả và hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; dự báo sát tình hình thế giới, khu vực và trong nước, xác định đúng thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức. Quá trình tổng kết cần bám sát thực tiễn, quan điểm, định hướng của Nghị quyết Đại Hội lần thứ XIII của Đảng. Trên cơ sở đó đề xuất, kết luận có cơ sở khoa học về những nội dung cần khẳng định, tiếp tục thực hiện và nội dung cần điều chỉnh, bổ sung, phát triển.
Vì vậy, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ hội để quán triệt, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp, đưa hội nhập quốc tế lên tầm mức mới, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Chúng ta trông chờ và kỳ vọng vào thành công của Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế.
1. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII