![]() |
| Đại diện 5 nước ASEAN đầu tiên: Indonesia, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Singapore tại Bangkok, Thái Lan ngày 8/8/1967. |
Tuy nhiên, sau 43 năm tồn tại và phát triển, giờ đây ASEAN đang nổi lên như một trong các tổ chức khu vực thành công nhất. Tuy chỉ là một tập hợp của các quốc gia đang phát triển, với thế và lực rất khiêm tốn, nhưng ASEAN đang được coi là một trong những trung tâm tại châu Á- Thái Bình Dương, động lực của nhiều cơ chế khu vực như ASEAN+1, ASEAN+3, ARF, ASEM v.v.
Tuyên bố Bangkok 1967 - tầm nhìn xuyên thế kỷ
Ngày 8/8/1967, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao với sự có mặt của đại diện 5 nước Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, một tuyên bố hết sức ngắn gọn (chưa đầy 3 trang với 7 mục tiêu) đã ra đời. Hiệp hội ASEAN đã hình thành trên cơ sở của tuyên bố Bankok với mục tiêu gói gọn trong 2 điểm cơ bản: Phấn đấu để ASEAN trở thành tổ chức quy tụ tất cả các nước Đông Nam Á; Phấn đấu để Đông Nam Á trở thành một khu vực HÒA BÌNH - TỰ DO - THỊNH VƯỢNG
Đây là những mục tiêu có tầm chiến lược và đã được kiểm chứng bởi quãng thời gian hơn 4 thập kỷ qua.
Trước hết, trong bối cảnh đối đầu phe, khối của Chiến tranh lạnh, cũng như hầu hết mọi miền trên trái đất, Đông Nam Á cũng chịu cảnh bị chia cắt thành 2 mảng. Cộng thêm với bề dày lịch sử khép kín, rất ít giao lưu của mô hình nông nghiệp, thì việc đặt ra định hướng quy tụ mọi quốc gia ĐNÁ vào chung một ngôi nhà thật sự mang tính viễn tưởng nhiều hơn. Tuy nhiên, 2 yếu tố khiến cho ý tưởng này thật sự có tính chiến lược vượt trước thời gian: ĐNÁ là khu vực bao gồm toàn các nước nhỏ, kém phát triển, lại phải trải qua một thời gian dài dưới chế độ nô lệ. Nếu các quốc gia này không đoàn kết lại, không gạt bỏ đi được những khác biệt từ trình độ phát triển, các giá trị văn hóa đến thói quen tư duy thì rất khó có thể thoát cảnh đói nghèo; Cùng với thời gian, các quốc gia ĐNÁ bắt buộc sẽ phải chuyển dần sang mô hình công nghiệp. Những đòi hỏi hội nhập, liên kết nảy sinh từ quá trình công nghiệp hóa sẽ vừa là động lực vừa là sức ép kéo các nước lại với nhau.
Thứ hai, vào cuối thập kỷ 60 (Thế kỷ XX), lúc mà Chiến tranh lạnh bắt đầu lan rộng ra ĐNÁ, các nhà sáng lập ra ASEAN có lẽ chỉ mong muốn nhìn thấy một ĐNÁ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, không có chiến tranh và điều này sẽ đem đến cho nhân dân một sự ấm no. Những biến động liên tục và vô cùng phức tạp của lịch sử đã cho thấy, những mục tiêu này hiện đang là đích đến của toàn nhân loại. Hòa bình, tự do và thịnh vượng giờ đây mang ý nghĩa chiến lược rộng lớn hơn rất nhiều so với thời điểm ASEAN ra đời.
Cuối cùng, nếu đặt cả hai mục tiêu này bên nhau mới thấy hết tầm vóc của chúng bởi hơn 40 năm qua, các quốc gia ĐNÁ với những cố gắng phi thường nhưng mới chỉ đạt được những thành quả rất khiêm tốn. Để đến được cái đích của Tuyên bố Bankok có lẽ còn cần rất nhiều thời gian.
Hành trình hiện thực hóa Tuyên bố Bangkok
Thành công đầu tiên của các nước ĐNÁ là thực hiện được giấc mơ của các bậc tiền bối sáng lập ASEAN. Ngày 30/04/1999, sau 32 năm phấn đấu với việc kết nạp Campuchia, một ASEAN với đầy đủ thành viên của khu vực đã hoàn tất. Quá trình mở rộng ASEAN cho thấy sự vượt lên chính bản thân của mỗi quốc gia ĐNÁ khi gạt bỏ được mọi nghi kỵ, hiềm khích trong quá khứ, gạt bỏ được những khác biệt về chế độ chính trị-xã hội cũng như trình độ phát triển. Tư duy "cần có nhau" đã hình thành trong mỗi thành viên và trở thành cơ sở cho những hoạt động của ASEAN;
Hoàn thiện dần phương thức làm việc của Hiệp hội có thể coi là thành công quan trọng kế tiếp của ASEAN. Từ những bước sơ khai với mô hình hoạt động "phương thức ASEAN" (ASEAN Way) đến năm 2008 Hiến chương ASEAN đã được tất cả thành viên phê chuẩn cho thấy một bước tiến dài trên con đường thể chế hóa của ASEAN;
Thành công nhất của ASEAN có lẽ là những hoạt động hợp tác, liên kết giữa các thành viên. Bắt đầu chỉ là những bước đi mang tính chất khát vọng của các thành viên như Tuyên bố ZOPFAN (Kualar Lumpur 1971), Hiệp ước thân thiện và hợp tác (TAC 1976) v.v. Ngày 7/10/2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (ASEAN Concord II) và quyết định thành lập các cộng động ASEAN. Để có được kết quả này, các thành viên của ASEAN đã phải trải qua một quá trình hợp tác từ song phương tới đa phương trên rất nhiều lĩnh vực. Bởi chỉ có qua thực tế hợp tác, các nước mới có được "tư duy cộng đồng" - nền tảng của sự chia sẻ, thống nhất, hài hòa trong đa dạng;
Một thành công của ASEAN, thoạt nhìn có vẻ như vượt tầm so với Tuyên bố Bangkok, đó là việc ASEAN đang ngày càng khẳng định vị thế của một trung tâm quyền lực của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. ASEAN hiện đang giữ vai trò hạt nhân trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương trong khu vực như ASEAN+1, ASEAN+3, ARF, ASEM v.v. Nhưng nếu tiếp cận ĐNÁ là một khu vực "mở" có vai trò địa chính trị và địa kinh tế rất quan trọng đối với các trung tâm quyền lực trong bối cảnh toàn cầu hóa thì việc ASEAN phải mạnh dạn tham dự và phải thể hiện được tính chủ động trong các hoạt động của không gian rộng lớn châu Á-Thái Bình Dương là đòi hỏi tất yếu để có thể đạt được hòa bình, tự do và thịnh vượng.
Nhìn lại chặng đường đã qua của ASEAN, càng thấy tầm vóc chiến lược của Tuyên bố Bangkok. ASEAN còn quá nhiều việc phải làm để có thể hoàn thành những mục tiêu mà các nhà sáng lập ASEAN đã đặt ra. Khi nhà nước Đông Timor ra đời (năm 2001) càng cho thấy nhiệm vụ tưởng như đơn giản (thậm chí đã được coi là hoàn tất) là xây dựng một ngôi nhà chung ĐNÁ lại không dễ chút nào. Vì thế, nhiệm vụ kế tiếp là tạo dựng một cuộc sống phồn vinh cho những thành viên trong ngôi nhà ASEAN lại còn khó khăn gấp bội. Hy vọng Tuyên bố Bangkok luôn là động lực cho sự phấn đấu của tất cả thành viên ASEAN.
TS. Đỗ Sơn Hải, Học viện Ngoại giao
