các thiếu nữ A Lưới đang dệt thổ cẩm |
Tôi cùng đoàn cán bộ Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng Thừa Thiên Huế lên A Lưới để khảo sát và lập hồ sơ di tích lịch sử của vùng căn cứ kháng chiến xưa. Nơi đóng quân của Bộ Chỉ huy Mặt trận giải phóng Trị Thiên. Nơi có con đường hành lang chiến lược, con đường thần kỳ mang tên Bác đi qua. Nơi sản sinh ra nhiều người con anh hùng các dân tộc miền núi như A Nam, Kan Lịch, Hồ Vai… Và nơi có nhiều địa danh lịch sử với những tên núi, tên sông của vùng rừng núi A Lưới mà đã một thời, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đã ăn sâu trong ký ức của biết bao đồng bào, đồng chí mà không biết bao phen làm cho quân thù khiếp sợ…
Ngồi trên chiếc U-oát chạy dọc theo tuyến đường 12 băng qua những rừng cây bạc ngàn, những cánh đồi trọc lô nhô, xe vượt lên những triền dốc, đi xuống những cầu vực, góc cua khúc khuỷu. Phải gần 3 tiếng đồng hồ, chúng tôi mới đến được huyện lỵ A Lưới, để mở đầu cho một chuyến điền dã hành hương về cội nguồn, về với những kỳ tích lịch sử của một thời oanh liệt đã qua…
Không như những huyện vùng đồng bằng khác, A Lưới là huyện có nhiều dân tộc sống xen kẽ vào nhau như Tà Ôi (hay còn gọi là Pa Cô), Cờ Tu, Pa Hy, Kinh, Vân Kiều… Nhưng chủ yếu vẫn là dân tộc Tà Ôi. Họ sinh cơ, lập nghiệp đã lâu đời trên các thung lũng của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Họ tự hào về tên gọi Pa Cô thay cho tiếng Tà Ôi của dân tộc mình (Pa có nghĩa là phía, Cô là núi cao). Và một điều nữa cũng rất đáng để họ tự hào, đó là truyền thống đánh giặc trong những năm tháng ác liệt của cuộc chiến tranh.
Ngồi nghỉ uống nước, chúng tôi mỗi người mang một tâm trạng khác nhau. Người thì mệt mỏi sau 3 tiếng đồng hồ phải vật vã với con đường gập gềnh, người thì ngạt thở do sự thay đổi của thời tiết… nhưng tất cả đều đăm chiêu, mắt nhìn ra phía bầu trời xa xăm, nơi đang có những ngọn núi hùng vĩ, vẫn đứng đó sừng sững như đã thách thức ai và đang chờ đợi ai...
Ngày đầu tiên của chuyến đi, chúng tôi theo xe đi dọc đoạn đường Trường Sơn - con đường mang tên Bác để khảo sát các địa điểm di tích, các tuyến đường mòn 71, 72, 73, 74 mà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đây là đầu mối giao thông quan trọng để vận chuyển sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Nếu không tính tổng chiều dài các nhánh rẽ về đồng bằng của 4 con đường 71, 72, 73, 74 và tuyến đường Tây Trường Sơn từ Lào sang, thì đoạn đường mòn Hồ Chí Minh - Đông Trường Sơn đi qua huyện A Lưới bắt đầu từ cầu Đắc Krông (Quảng Trị) vào đến xã A Đớt (giáp Quảng Nam - Đà Nẵng) có chiều dài gần 90km. Đây là con đường vận chuyển chiến lược bằng cơ giới được mở vào năm 1968 khi Khe Sanh (Quảng Trị) giải phóng. Đi dọc theo tuyến đường này mới thấu hết nỗi nhọc nhằn, những hy sinh, mất mát của biết bao mồ hôi, xương máu, công sức của các đồng bào, chiến sĩ ta trên khắp mọi miền của đất nước đã đổ xuống để bảo vệ sự sống còn của con đường. Là chứng tích về một quá khứ hào hùng của dân tộc ta, dám lấy sức mạnh của ý chí, của lòng dũng cảm để đánh đổi với những vũ khí, máy móc hiện đại… Những con đường này ngày hôm qua là vậy, và hôm nay vai trò của nó cũng không kém phần quan trọng. Là đầu mối giao thông liên lạc giữa huyện miền núi A Lưới về với đồng bằng, giữa đồng bào các dân tộc miền núi, vùng cao về với miền xuôi; từng bước xóa bỏ sự ngăn cách, chênh lệch về văn hóa, kinh tế, xã hội của từng vùng để cùng nhau tiến lên trên con đường đổi mới của tỉnh nhà.
Ngày thứ hai chúng tôi đến địa đạo Động So. Từ trung tâm thị trấn A Lưới, đi bộ hơn 3 giờ đồng hồ ven theo từng lối đường mòn nhỏ xíu, vượt qua những đồi cỏ tranh um tùm để đến khu vực có địa đạo. Địa đạo Động So nằm ở phía dưới 2 ngọn đồi A So và A Túc. Đây là một hệ thống cụm, hầm địa đạo có khoảng 15 cái, phân bố ở 3 khu vực theo 3 con khe nhỏ khác nhau là khe Cứp, khe Chân Chồm và khe Tầng Hối. Trải qua nhiều đợt công kích và mưa bom của kẻ thù, nhưng các địa đạo đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên vẹn. Ông Nguyễn Hạp (Đại tá nghỉ hưu, trước đây là Chủ nhiệm Cục Hậu cần Quân khu Trị Thiên Huế) cho biết: “Địa đạo Động So được đào vào năm 1967. Trước đây là kho chứa vũ khí của Binh đoàn 559, sau đó giao lại cho Binh Trạm 108 thuộc Cục Hậu cần Quân khu Trị Thiên Huế quản lý”. Trong chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, địa đạo là nơi cung cấp lương thực, vũ khí cho quân ta đánh vào thành phố Huế. Rời địa đạo Động So, đi qua khu vực bãi kho 61, 62 của Binh đoàn 559, rồi xuống Động Tiên Công, điểm tránh của con đường đặc đạo Tây Trường Sơn qua Dốc Mèo (núi Ki-a-nông) nơi đế quốc Mỹ đã thả bom làm sập miệng hang, làm 30 bộ đội hy sinh vì không có lối thoát ra.
Những ngày sau đó, chúng tôi cùng lặn lội leo núi, băng suối; có lúc thì đi dọc theo dòng sông A Sáp để đến sân bay Tà Lụt, đèo Tà Lương, đồn A Sầu…; đến hầm địa đạo A Dòn, nơi đặt Đài phát thanh giải phóng đầu tiên của Quân khu Trị Thiên Huế vào năm 1968. Rồi đến đồn A Bia, nơi trở thành di chứng khủng khiếp trong lịch sử của quân đội viễn chinh Hoa Kỳ mà những người lính Mỹ đã đặt tên cho nó là Đồi Thịt Băm.
Đêm trên vùng núi cao yên tĩnh, chúng tôi đang chuyển mình thức giấc bởi những làn gió se lạnh từ núi rừng thổi vào. Chập chờn trong giấc ngủ mơ, chúng tôi như đang nghe thấy âm vang của tiếng cuốc xẻng mở đường Trường Sơn năm nào; những tiếng động cơ hối hả vận chuyển hàng hóa, vũ khí chạy về phía đồng bằng để phục vụ kịp thời cho bộ đội ta tiến vào giải phóng thành phố. Vẫn văng vẳng đâu đây âm thanh tiếng hát của cô gái mở đường Trường Sơn và hình bóng, dáng dấp của những thiếu nữ Pa Cô đang múa bài Lời ru trên nương…
Ngày cuối cùng của chuyến khảo sát, chúng tôi đến khu vực Thác A Nô, nơi đặt trụ sở kháng chiến của UBND xã Thượng Hùng trước đây. Và bây giờ, Thác A Nô đã trở thành một thắng cảnh nổi tiếng của A Lưới, đã thu hút rất nhiều thanh niên, học sinh địa phương cũng như nhiều đoàn khách công tác từ đồng bằng mỗi khi lên A Lưới để tham quan.
A Lưới hôm nay đã có nhiều thay đổi để bắt kịp với sự đổi thay của đất nước. Kinh tế của A Lưới đang dần dần được ổn định và phát triển, đời sống đồng bào từng bước được nâng cao. Số hộ gia đình thiếu cái ăn, cái mặc đã giảm đáng kể. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách đầu tư, giúp đỡ vốn thỏa đáng để vận động bà con dân tộc, mỗi hộ gia đình cùng một lúc phát triển 3 vườn: vườn nhà, vườn rừng, vườn đồi; ổn định đời sống định canh định cư. Màu xanh của mía, của cà phê... đã từng bước khỏa lấp đi những cánh đồi trơ trụi lá. Hệ thống điện chiếu sáng đã với bà con ở từng bản xa xôi hẻo lánh. Mạng lưới y tế, giáo dục được nâng cấp, cải tạo (100% xã có trường học và trạm y tế). Đời sống văn hóa tinh thần không ngừng được nâng cao, từ chỗ chưa đến 10% đồng bào biết chữ trong kháng chiến, thì đến nay toàn huyện đã có 95% người dân biết chữ. Có hàng trăm học sinh cấp III và nhiều em đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp... đã góp phần tạo nên một sức bật mới cho A Lưới hôm nay và mai sau.
Chia tay A Lưới, tâm trạng của chúng tôi đầy bồi hồi, xao xuyến, lòng vẫn còn vương vấn với mỗi tên đất, tên làng, tên suối, tên sông đã thắm máu biết bao chiến sĩ, đồng bào các dân tộc, đã ghi dấu biết bao chiến công hiển hách trên mảnh đất rừng núi biên cương này. A Lưới thực sự là bức tường thành phía Tây Thừa Thiên Huế trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Minh Phương