📞

'Vết dầu loang' từ việc Fed nâng lãi suất đối với các nền kinh tế yếu hơn

H.Thủy 15:59 | 08/05/2022
Giới chuyên gia nhấn mạnh tác động từ quyết định của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể vượt ra ngoài biên giới Mỹ.

Khi Fed tăng lãi suất, tác động của quyết định đó không chỉ dừng ở việc người mua nhà ở Mỹ phải trả nhiều tiền hơn cho các khoản thế chấp, hoặc các chủ doanh nghiệp nhỏ, độc lập phải đối mặt với các khoản vay ngân hàng đắt đỏ hơn.

Giới chuyên gia nhấn mạnh rằng tác động từ quyết định của Fed có thể vượt ra ngoài biên giới Mỹ, ảnh hưởng tới các chủ cửa hàng ở Sri Lanka, nông dân ở Mozambique và các gia đình ở nhiều nước nghèo trên thế giới.

Nó có thể dẫn tới một loạt ảnh hưởng, từ việc đẩy chi phí đi vay ở những quốc gia này cao hơn đến khiến đồng nội tệ của họ mất giá.

Fed tăng mức lãi suất cao nhất trong vòng 20 năm qua. (Nguồn: Reuters)

Tính toán của Fed

Ngày 4/5, Fed tăng lãi suất ngắn hạn thêm 0,5 điểm phần trăm lên mức cao nhất kể từ khi đại dịch xảy ra cách đây hai năm, đồng thời báo hiệu sẽ còn nhiều đợt tăng lãi suất khác. Hiện lãi suất tham chiếu tại Mỹ nằm trong khoảng 0,75% - 1%.

Bằng cách đẩy lãi suất lên, Fed hy vọng sẽ đạt được kịch bản “hạ cánh mềm” – chỉ việc tăng lãi suất cao vừa đủ để làm chậm các hoạt động trong nền kinh tế và kiểm soát lạm phát, nhưng không đủ mạnh để đẩy nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái.

Vào tháng 3/2022, giá tiêu dùng của Mỹ đã tăng 8,5% so với cùng kỳ một năm trước đó – mức tăng lớn nhất kể từ năm 1981 tới nay.

Lạm phát tăng vọt là kết quả của sự phục hồi mạnh mẽ bất ngờ từ đợt suy thoái do đại dịch gây ra vào năm 2020. Sự phục hồi này quá đột ngột, khiến các doanh nghiệp bị bất ngờ và phải cạnh tranh khốc liệt để tìm kiếm nhân công cùng nguồn cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu từ khách hàng. Kết quả là nền kinh tế phải đối mặt với sự thiếu hụt, chậm trễ trong việc đặt hàng và giá cả leo thang phi mã.

Các nước đang phát triển lo lắng rằng Fed có thể đã chờ đợi quá lâu để bắt đầu chiến dịch chống lạm phát. Do đó, ngân hàng trung ương Mỹ sẽ buộc phải tăng lãi suất mạnh đến mức gây ra một cuộc “hạ cánh cứng” gây tổn hại cho cả nền kinh tế này và các nước đang phát triển.

Bà Liliana Rojas-Suarez, thành viên cấp cao tại tổ chức tư vấn phi lợi Center for Global Development (CGD) cho biết tình hình sẽ khả quan hơn nhiều nếu Fed phản ứng nhanh hơn khi vấn đề nhen nhóm vào năm ngoái.

Chuyên gia này lưu ý Fed không có thành tích ấn tượng trong việc điều hướng chính sách để đạt được các cuộc “hạ cánh mềm”. Lần cuối cùng nỗ lực như vậy diễn ra là vào giữa những năm 1990 dưới thời Chủ tịch Fed Alan Greenspan. Giai đoạn này kết thúc theo cách không mấy tốt đẹp đối với nhiều nước đang phát triển.

Bà Rojas-Suarez nhắc lại rằng nước Mỹ khi đó có thể quản lý được lạm phát và tránh được một cuộc suy thoái, nhưng đồng thời cũng tạo ra ảnh hưởng lớn cho các thị trường mới nổi. Sau động thái tăng lãi suất của Fed là một loạt các cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico, ở Nga và cuối cùng là trên khắp châu Á.

Ông Eric LeCompte, Giám đốc điều hành của Mạng lưới Jubilee USA, một liên minh hỗ trợ công cuộc xóa đói giảm nghèo toàn cầu cũng chia sẻ quan điểm trên, nhấn mạnh rằng quyết định của Fed sẽ tạo áp lực lên mọi quốc gia đang phát triển.

Tác động “vết dầu loang”

Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), bà Kristalina Georgieva đã bày tỏ sự lo lắng rất lớn về vấn đề này. Hồi tháng trước, bà phải lên tiếng cảnh báo Fed và các ngân hàng trung ương khác cần “lưu ý đến rủi ro lan tỏa đối với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi dễ bị tổn thương” từ quyết định tăng lãi suất của họ.

Quyết định tăng lãi suất của Mỹ có thể gây ra thiệt hại lan tỏa theo một số cách. Đầu tiên, chúng có thể làm nền kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại và làm giảm nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ đối với hàng hóa nước ngoài. Điều này sẽ khiến những nước phụ thuộc lớn vào xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ chịu nhiều thiệt hại

Tiếp theo, lãi suất tăng cũng ảnh hưởng đến đầu tư toàn cầu: Khi lãi suất ở Mỹ lên cao, trái phiếu công ty và Chính phủ Mỹ vốn đã an toàn sẽ có vẻ hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế. Vì vậy, họ có thể rút vốn khỏi thị trường các nước nghèo và thu nhập trung bình để đầu tư vào Mỹ. Những thay đổi đó thúc đẩy đồng USD tăng giá trong khi đẩy đồng nội tệ ở các nước đang phát triển đi xuống.

Sự mất giá tiền tệ có thể gây ra nhiều vấn đề. Chúng khiến việc chi trả cho thực phẩm nhập khẩu và các sản phẩm khác trở nên đắt đỏ hơn. Điều đó đặc biệt đáng lo ngại vào thời điểm các nút thắt trong chuỗi cung ứng và cuộc chiến ở Ukraine làm gián đoạn các chuyến hàng ngũ cốc và phân bón, đồng thời đẩy giá lương thực trên toàn thế giới lên mức cao báo động.

Để bảo vệ đồng tiền của nước mình, ngân hàng trung ương ở các nước đang phát triển có khả năng tăng tỷ giá của chính họ. Song điều đó có thể gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế: kéo chậm tăng trưởng, xóa sổ việc làm và khiến những người vay vốn kinh doanh càng thêm khó khăn. Động thái đó cũng buộc các chính phủ mắc nợ phải chi nhiều ngân sách hơn cho việc trả lãi các khoản nợ, trong khi cắt giảm chi tiêu cho những công việc như chống dịch và đảm bảo an sinh cho người nghèo.

Tổng Giám đốc Georgieva của IMF đã cảnh báo rằng 60% các quốc gia có thu nhập thấp đã ở trong hoặc gần ngưỡng "kiệt quệ vì nợ nần" - một ngưỡng đáng báo động chỉ việc số tiền trả nợ của các nước này đã lên tới tương đương một nửa quy mô nền kinh tế quốc gia.

Viện dẫn các điều kiện tài chính khắc nghiệt hơn, IMF gần đây đã hạ triển vọng tăng trưởng kinh tế năm 2022 của các nước thị trường đang phát triển và mới nổi xuống 3,8% - thấp hơn tới một điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng Một.

Tuy nhiên, bất chấp những rủi ro liên đới, Fed dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm vài lần nữa trong năm nay để chống lạm phát đang tăng cao trong nước.

(theo TTXVN)