Toàn cảnh Hội thảo đồng xử lý các nhiên liệu thay thế và nguyên liệu thô trong ngành xi măng tại Việt Nam ngày 29/9. (Nguồn: SINTEF) |
Hội thảo nhằm mục đích chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về đồng xử lý chất thải trong ngành công nghiệp xi măng, cũng như các kết quả của cuộc trình diễn gần đây sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế tại nhà máy INSEE ở Hòn Chông, Kiên Giang, từ đó thảo luận về tiềm năng đồng xử lý trong tương lai của ngành xi măng Việt Nam.
Tham dự Hội thảo có Phó Đại sứ Na Uy tại Việt Nam bà Mette Møglestue; Tiến sĩ Kåre Helge Karstensen, Chuyên gia cao cấp và Quản lý Chương trình của SINTEF; ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch VNCA; ông Bruno Fux, Giám đốc Ecocycle & Bền vững của INSEE Ecocycle, và hơn 130 đại biểu đại diện cho các tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Đó là UNDP Việt Nam, GIZ, UNIDO Việt Nam, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT), các ban ngành địa phương và các thành viên của VNCA , các trường đại học, một số hiệp hội trong nước như Hiệp hội Da giày và Túi xách Việt Nam, Hiệp hội Nhựa Việt Nam, các công ty tư nhân hoạt động trong ngành xi măng và các lĩnh vực liên quan, các tổ chức phi chính phủ về môi trường và các tổ chức khác.
Góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050
Trong bài phát biểu khai mạc, Phó Đại sứ Na Uy Mette Møglestue nhấn mạnh, Na Uy và Việt Nam, cũng như các thành viên tham gia Thỏa thuận Paris, đều cam kết mạnh mẽ chống biến đổi khí hậu và thực hiện các Đóng góp Quốc gia tự quyết định (NDC) nhằm giảm phát thải khí nhà kính (GhG).
Theo bà Mette Møglestue, để đạt mục tiêu này cần sự tham gia của nhiều lĩnh vực và chính phủ Na Uy đánh giá cao vai trò quan trọng của các viện nghiên cứu, khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các ngành công nghiệp trong quá trình này.
Phó Đại sứ Na Uy bày tỏ vui mừng khi biết rằng kết quả nghiên cứu của SINTEF trong việc sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế làm nhiên liệu thay thế cho lò nung xi măng đã được chứng minh thành công và có thể được nhân rộng ở Việt Nam.
"Thông qua Dự án OPTOCE do chính phủ Na Uy tài trợ và đang được thực hiện tại 5 quốc gia châu Á trong đó có Việt Nam, chúng tôi hy vọng Na Uy có thể giúp ngành xi măng Việt Nam nâng cao năng lực xử lý chất thải nhựa không thể tái chế và góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam”, bà Mette Møglestue nói.
Về phần mình, Tiến sĩ, nhà khoa học Kåre Helge Karstensen của SINTEF, người đứng đầu Dự án OPTOCE cho biết ngành công nghiệp xi măng hiện đang sử dụng khối lượng lớn than và các nguyên liệu thô khác. Tuy nhiên, có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng nhiên liệu này này bằng chất thải nhựa không thể tái chế.
Dẫn kết quả nghiên cứu, ông Kåre Helge Karstensen nêu rõ việc đồng xử lý chất thải nhựa không thể tái chế làm chất thay thế nhiên liệu trong các lò nung xi măng không làm tăng phát thải dioxin trong khi vẫn tuân thủ các giá trị giới hạn quốc tế nghiêm ngặt nhất.
Theo ông Kåre Helge Karstensen, việc thử nghiệm thành công phương thức này tại nhà máy INSEE Việt Nam gửi đi một thông điệp hy vọng về tương lai của ngành xi măng Việt Nam. Đồng xử lý trong lò nung xi măng có thể cải thiện việc quản lý chất thải nhựa không thể tái chế ở Việt Nam. Giải pháp này làm giảm tiêu thụ than trong ngành công nghiệp xi măng, đồng thời giảm nhu cầu xây dựng các lò đốt phát điện đắt tiền (biến chất thải thành năng lượng).
"Quan trọng hơn, ngành công nghiệp xi măng nói chung có thể đóng một vai trò quan trọng trong giảm lượng phát thải GhG và ngăn chặn chất thải nhựa đổ vào đại dương”, nhà khoa học Na Uy nhấn mạnh.
Mặc dù đồng xử lý đang được áp dụng rất phổ biến ở châu Âu và Na Uy, nhưng giải pháp này còn chưa được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, chỉ có một số ít các nhà máy xi măng hiện đang thực hiện đồng xử lý chất thải.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Đức Long thuộc VNCA, Việt Nam có 82 lò nung clanhke đang hoạt động, mỗi năm tiêu thụ trên 10 triệu tấn than antraxit. Hiện nay tỉ lệ sử dụng nhiên liệu thay thế trong toàn ngành rất thấp.
"Chính phủ Việt Nam có chủ trương tăng lượng sử dụng nhiên liệu thay thế lên mức 15% từ nay đến 2030 và 30% sau năm 2030. Như vậy, tiềm năng đồng xử lý chất thải, trong đó có nhựa không tái chế được, trong lò nung xi măng ở Việt Nam là rất lớn", Tiến sĩ Lương Đức Long nhận định.
Phó Đại sứ Na Uy Mette Møglestue phát biểu tại Hội thảo. (Nguồn: SINTEF) |
Cơ hội và thách thức
Bày tỏ vui mừng khi tham gia thực hiện dự án của OPTOCE, ông Bruno Fux, Giám đốc Ecocycle & Sustainability của công ty INSEE Ecocycle cho biết dự án này sẽ biến chất thải nhựa thành cơ hội để phát triển nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
Hoạt động trong lĩnh vực đồng xử lý trong 15 năm qua, INSEE Ecocycle tại Việt Nam không ngừng đầu tư trang thiết bị mới nhằm mở rộng khả năng và công suất xử lý chất thải của nhà máy.
Theo ông Bruno Fux, ưu tiên hàng đầu của công ty INSEE Ecocycle là không gây hại cho con người và môi trường. Vì vậy, kinh nghiệm chuyên môn là cần thiết, đặc biệt là khi xử lý chất thải nguy hại.
Đồng xử lý không phải là một khái niệm mới nhưng ở Việt Nam nó đang ở giai đoạn sơ khai. Đây là cơ hội lớn cho ngành công nghiệp xi măng để trở thành nhà cung cấp giải pháp quan trọng cho các chất thải không thể tái chế trong một cơ sở hạ tầng quản lý chất thải chưa phát triển.
Ông Bruno Fux chia sẻ: "Chúng tôi hy vọng nhiều công ty xi măng Việt Nam được truyền cảm hứng từ Hội thảo này và trở thành những người bạn cùng chí hướng với chúng tôi. Cùng nhau, chúng ta có thể giảm thiểu việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá và góp phần xây dựng Việt Nam xanh và sạch hơn”.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số thách thức chẳng hạn như các doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn vốn đầu tư cho đồng xử lý; ở Việt Nam, rất ít/chưa có đơn vị chuyên thực hiện việc thu gom, xử lý sơ bộ chất thải và cung cấp đến nhà máy xi măng; một số bất cập về thủ tục pháp lý, ví dụ như xác nhận các nhà máy xi măng áp dụng đồng xử lý là cơ sở xử lý chất thải; hoặc thiếu các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các doanh nghiệp xi măng áp dụng phương pháp này cũng như các doanh nghiệp thu gom, sơ chế chất thải trong chuỗi cung ứng liên quan.
Bàn về những thách thức, Tiến sĩ Kåre Helge Karstensen bổ sung rằng việc thực hiện đồng xử lý an toàn trong ngành xi măng cần có thời gian, phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện của các địa phương và quốc gia.
"Trước hết phải có khung pháp lý và các quy định, công ty xi măng và nhà điều hành đồng xử lý phải có đủ năng lực, kiến thức, đủ thiết bị và các giấy phép liên quan; phải có sự đồng tình ủng hộ của chính quyền địa phương và trung ương, và có một sân chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia trong thị trường quản lý chất thải”, Tiến sĩ Kåre Helge Karstensen nhấn mạnh.
Hội thảo là diễn đàn hữu ích để các nhà khoa học, các nhà quản lý đến từ bộ, ngành và địa phương, các công ty xi măng, các công ty có nguồn chất thải nhựa không thể tái chế và các tổ chức phi chính phủ chia sẻ thông tin về tiềm năng, thuận lợi và khó khăn khi áp dụng đồng xử lý chất thải tại Việt Nam.
Thông qua hội thảo, các đại biểu mong muốn chính phủ Việt Nam sớm có được hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi để ngành công nghiệp xi măng có thể thực sự trở thành một đối tác quan trọng góp phần tăng cường quản lý tổng hợp chất thải rắn.
Nguồn chất thải rắn phù hợp và ổn định cung cấp cho quá trình đồng xử lý cần được quy hoạch, thu gom, vận chuyển và lưu trữ phù hợp trong điều kiện của Việt Nam. Vì thế, các công ty xi măng rất cần sự hỗ trợ về mặt khoa học, kỹ thuật, nguồn nhân lực, vật lực cần thiết để sớm triển khai áp dụng đồng xử lý tại Việt Nam.
Các đại biểu, diễn giả tham gia chia sẻ kinh nghiệm trong đồng xử lý các nhiên liệu thay thế và nguyên liệu thô trong ngành xi măng. (Nguồn: SINTEF) |