|
Ngày 14/1, Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN Xu Bu có bài viết nhan đề “Duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông” đăng trên tờ Jakarta Post. Đây là một bài viết mang tính nguỵ biện với nhiều lập luận xuyên tạc trong việc khẳng định chủ quyền “không thể chối cãi” được của Trung Quốc ở Biển Đông, cũng như hàng loạt bước đi của Trung Quốc ở Biển Đông hiện nay là “đóng góp” cho hòa bình và ổn định khu vực.
Đại sứ Xu Bu đã đưa ra nhiều lập luận để chứng minh rằng Bắc Kinh luôn quyết tâm giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán và tham vấn, luôn mong muốn gác tranh chấp để cùng phát triển. Ông Xu Bu cũng nhấn mạnh rằng các hoạt động cải tạo và bồi đắp của của Trung Quốc trên các đá và rạn san hô sẽ không ảnh hưởng cũng không nhắm tới bất kỳ quốc gia nào khác; không ảnh hưởng đến tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; sẽ không làm tổn hại đến hệ sinh thái biển; và càng không thể gọi đó là những hành động quân sự hóa. Bài viết cũng cho rằng Trung Quốc luôn tôn trọng và duy trì tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, nghiêm túc thực hiện luật pháp quốc tế.
Phản bác lại những lập luận thiếu thuyết phục của Đại sứ Xu Bu, ngày 25/1, cũng trên tờ Jakarta Post, Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Hoàng Anh Tuấn có bài viết với tiêu đề “Các diễn biến đáng lo ngại trên Biển Đông”, đã đưa ra những thực tế trái ngược hoàn toàn với những tuyên bố của Đại sứ Xu Bu.
Trong bài báo, Đại sứ Hoàng Anh Tuấn nêu ra các hành động gần đây của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa như việc xây dựng, bồi đắp các đảo đá, và đặc biệt là việc bay thử nghiệm máy bay dân sự. “Sau khi hoàn thành việc xây dựng các đảo nhân tạo trên các rạn san hô và đá – những nơi mà Trung Quốc chiếm giữ trái phép, từ ngày 1/1/2016, Trung Quốc bắt đầu tiến hành bay thử máy bay dân sự ra đá Chữ Thập của Việt Nam. Hành động này thể hiện rõ hơn ý định bành trướng của Bắc Kinh ở một khu vực có ý nghĩa quan trong đối với giao thương hàng hải ở Đông Nam Á và thế giới”, ông Tuấn viết.
Không những thế, từ 1-8/1/2016, Trung Quốc đã tiến hành 46 chuyến bay trong vùng quản lý bay (FIR) của Việt Nam quản lý. Đại sứ Hoàng Anh Tuấn nhấn mạnh: “Điều này không chỉ vi phạm chủ quyền của Việt Nam mà còn vi phạm nghiêm trọng các quy định như Công ước Chicago 1944 về Hàng không dân dụng quốc tế và các Phụ lục liên quan đến Quy định của Hàng không, đặc biệt là phụ lục 2 và Phụ lục 11, do đó đe dọa an toàn của chuyến bay quốc tế ở khu vực này. Điều này cho thấy Trung Quốc dường như đang quay lưng lại các thỏa thuận quốc tế.”
Rõ ràng, hành động của Trung Quốc là trái với tuyên bố của nước này, rằng việc xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông không ảnh hưởng đến tự do và an toàn hàng hải, hàng không ở Biển Đông và hòa bình, ổn định ở Biển Đông vẫn được đảm bảo.
Trong bài viết, ông Tuấn cũng chỉ rõ, việc xây dựng và bồi đắp các đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Trường Sa đi ngược lại với tinh thần của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là nhấn mạnh đến việc duy trì nguyên trạng và không khuyến khích hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình.
Sau khi đưa ra các chứng cứ lập luận rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam, phản bác lại các lập luận “trái với thực tế” của Đại sứ Xu Bu, Đại sứ Hoàng Anh Tuấn đã đưa ra ba đề xuất để Trung Quốc biến các lời nói duy trì và ổn định của mình ở Biển Đông thành hiện thực, bao gồm:
(i) Trung Quốc cần phải dừng tất cả các công trình xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông và cần phải chấm dứt hành vi làm thay đổi hiện trạng và quân sự hóa Biển Đông.
(i) Trung Quốc phải cam kết duy trì nguyên trạng và nhanh chóng chấm dứt việc xây dựng sân bay tại đá Chữ Thập (Fiery Cross) của Việt Nam, vì điều này đe dọa chủ quyền của Việt Nam, hòa bình, ổn định trong khu vực và tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông.
(ii) Trung Quốc cần phải thực hiện đầy đủ DOC, có thiện chí đạt được một thỏa thuận COC với ASEAN và cam kết giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Ông Tuấn cho rằng, đây là những bước đầu tiên và quan trọng để tạo ra một môi trường hòa bình, ổn định cho khu vực Đông Nam Á, và điều này tất nhiên sẽ mang lại những lợi ích lâu dài cho Trung Quốc.
Và cũng chỉ khi thực hiện nghiêm túc những điều này thì những tuyên bố của Trung Quốc về Biển Đông sẽ bớt “vênh” hơn với những diễn biến thực tế trên Biển Đông.