Tỉnh Nghệ An có 468,281 km đường biên giới quốc gia trên đất liền, tiếp giáp với các tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng và Bôlykhămxay, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Khu vực biên giới đất liền tỉnh Nghệ An gồm có 27 xã biên giới thuộc 6 huyện: Quế Phong, Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn và Thanh Chương, trên địa bàn các xã biên giới có 6 dân tộc sinh sống gồm: Kinh, Thái, Mông, Khơ Mú, Đan Lai, Tày, Pọong. Các xã biên giới chủ yếu là các địa bàn thuộc diện vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, kinh tế, xã hội phát triển chậm, tỷ lệ hộ nghèo còn cao (chiếm 60% theo chuẩn mới), nhân dân các dân tộc trên địa bàn có mối quan hệ thân tộc, dân tộc, dòng họ 2 bên biên giới rất lâu đời và khăng khít (gắn kết thân thiết).
Hội nghị thống nhất giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới Việt Nam - Lào giữa hai tỉnh Nghệ An và Bôlykhămxay (Lào) diễn ra tại thành phố Vinh ngày 15/8/2019 (Nguồn: baonghean). |
Trong những năm qua, mặc dù Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành Trung ương và tỉnh Nghệ An đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên về phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc, miền núi, nhất là đối với đồng bào các dân tộc ở khu vực biên giới, tuy nhiên do trình độ dân trí, nhận thức của bà con nhân dân còn nhiều hạn chế, thu nhập không ổn định, đời sống còn gặp nhiều khó khăn; mặt khác, bà con trong khu vực biên giới còn mang nặng một số hủ tục, tập quán lạc hậu, hoặc do mâu thuẫn trong gia đình, dòng họ và dân tộc, nên một bộ phận người dân, chủ yếu là (người Mông) đã vượt biên di cư sang Lào để kết hôn và sinh sống hoặc làm thủ tục xin xuất cảnh sang Lào rồi ở lại cư trú bất hợp pháp.
Khi có Thỏa thuận về giải quyết vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước Việt Nam - Lào, được Chính phủ hai bên ký kết ngày 8/7/2013 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An (Việt Nam), Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã lãnh đạo, chỉ đạo, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các nội dung, chương trình, lộ trình của Thỏa thuận, đồng thời tăng cường công tác phòng, chống di cư tự do và kết hôn trong vùng biên giới trong vùng biên giới hai nước Việt Nam – Lào.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã thành lập ban chỉ đạo, Tổ chuyên viên liên hợp (Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh làm tổ trưởng), xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện các nội dung của Thỏa thuận. Tổ chuyên viên liên hợp đã phối hợp với Sở Ngoại vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập đoàn công tác trực tiếp sang làm việc với lãnh đạo chính quyền và Tổ chuyên viên liên hợp của 3 tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay để thống nhất phương pháp, thời gian, lộ trình thực hiện Thỏa thuận.
Sau đó, Tổ chuyên viên liên hợp tỉnh Nghệ An và các tỉnh có chung đường biên giới đã tiến hành thống kê, điều tra, xác minh, phân loại, lập danh sách người di cư tự do được phép, không được phép cư trú, người kết hôn không giá thú trong vùng biên giới của mỗi Bên trình lãnh đạo các cặp tỉnh xem xét, và đề nghị Ủy ban Biên giới quốc gia hai nước phê duyệt.
Mặc dù quá trình triển khai hai Bên gặp những khó khăn nhất định, nhất là về địa hình, phong tục tập quán..., nhưng với sự quyết tâm cao của lãnh đạo tỉnh, tinh thần trách nhiệm của các thành viên Tổ chuyên viên liên hợp hai Bên, sự đồng tình ủng hộ của chính quyền các cấp và nhân dân trong vùng biên giới hai nước nên việc thực hiện các nội dung Thỏa thuận của tỉnh Nghệ An với 3 tỉnh có chung đường biên giới đến nay cơ bản đã hoàn thành.
Hai Bên đã khảo sát, thống kê và nhất trí cho phép 202 công dân Lào kết hôn không giá thú được ở lại Việt Nam (tỉnh Nghệ An) cư trú và 4.772 công dân Việt Nam di cư tự do và kết hôn không giá thú được phép cư trú tại 3 tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay; đã công bố nhập quốc tịch Việt Nam cho 137 người Lào và đang làm hồ sơ nhập quốc tịch cho 34 người Lào và những người còn lại theo kế hoạch.
Bên cạnh đó, để ngăn chặn kịp thời tình trạng di cư trái phép trên địa bàn khu vực biên giới của tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động di cư trái pháp luật của đồng bào Mông khu vực biên giới Tây Nghệ An giai đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”; Đề án “Phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động truyền đạo Tin lành trái pháp luật ở khu vực biên giới Tây Nghệ An giai đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”, cùng với đó, Bộ đội Biên phòng tỉnh đã chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng của bạn (Lào) triển khai các hoạt động, các biện pháp ngăn chặn các hoạt động di cư trái phép xảy ra trong khu vực biên giới 2 nước, đặc biệt đã phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Xiêng Khoảng tiến hành diễn tập ngăn chặn người di cư trái phép trong khu vực biên giới đạt kết quả cao.
Để giúp người dân khu vực biên giới ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất, Uỷ ban Nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi, đầu tư phát triển kinh tế ở khu vực biên giới, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Chỉ đạo các đơn vị tăng cường tham mưu, phối hợp với chính quyền, địa phương trong công tác tuyên truyền vận động nhân dân, phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào các dân tộc trong công tác vận động nhân dân trong khu vực biên giới không di cư tự do. Do vậy, công tác phòng, chống di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới của tỉnh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đến nay, tình trạng này tuy chưa chấm dứt nhưng đã giảm rõ rệt.
Cán bộ Bộ đội biên phòng Nghệ An tuyên truyền Luật Hôn nhân và gia đình cho đồng bào các dân tộc vùng biên giới. (Nguồn:bienphong) |
Để có được kết quả trên; trong thời gian qua, tỉnh Nghệ An đã tập trung thực hiện tốt các chủ trương, giải pháp cơ bản sau:
Một là: Làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức cho nhân dân khu vực biên giới. Bằng nhiều biện pháp, giải pháp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, các ban ngành đoàn thể địa phương phối hợp chặt chẽ với các ngành, các lực lượng chức năng, đặc biệt là các đơn vị Bộ đội Biên phòng tỉnh để tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, ý thức về quốc gia, quốc giới cho nhân dân trên các địa bàn biên giới; phát huy có hiệu quả vai trò của các già làng, trưởng bản, người đứng đầu dòng họ, người có uy tín trên địa bàn để tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm các hiệp định về quy chế biên giới Việt Nam – Lào, Luật Biên giới quốc gia, Nghị định 34/NĐ-CP của Chính phủ về quy chế biên giới đất liền nước CHXHCN Việt Nam, cam kết không di cư tự do và kết hôn không giá thú qua hai bên biên giới, cảnh giác, không để các phần tử xấu lôi kéo di cư sang Lào tham gia sinh hoạt đạo Tin lành, hoạt động Phỉ và các tổ chức phản động; xây dựng các mô hình điểm về an ninh trật tự, các tổ tự quản đường biên cột mốc, làng bản không di dịch cư…tạo sự lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư.
Hai là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc, miền núi, chương trình “Nâng bước em đến trường”; Phong trào “Bộ đội Biên phòng chung sức xây dựng nông thôn mới”; Mô hình “Con nuôi đồn Biên phòng”; Đề án của UBND tỉnh về "Nâng cao chất lượng công tác vận động quần chúng góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh tuyến biên giới phía Tây Nghệ An, giai đoạn 2012-2015 và những năm tiếp theo"; Đề án "Nâng cao hiệu quả giúp đỡ các hộ gia đình ở khu vực biên giới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, gắn với bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2020-2025 và những năm tiếp theo", trong đó chú trọng đầu tư phát triển, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là hệ thống giao thông, điện, đường, trường, trạm, thủy lợi, nước sinh hoạt, xóa nhà tranh tre, dột nát; nâng cấp các thiết chế văn hóa, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, tăng cường chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; khuyến khích xây dựng, triển khai các chương trình, dự án, các mô hình điểm về phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, kịp thời bố trí, sắp xếp nơi cư trú, sản xuất, sớm ổn định đời sống cho số người dân hồi cư hoặc do Bạn (Lào) trao trả…góp phần quan trọng tạo niềm tin của nhân dân với cấp ủy, chính quyền địa phương, yên tâm ở lại làm ăn, sinh sống
Ba là: Tập trung củng cố vững chắc cơ sở chính trị, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở các địa bàn khu vực biên giới vững mạnh. Thường xuyên kiện toàn, củng cố đảm bảo về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Triển khai thực hiện hiệu quả Đề án số 01-ĐA/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Xây dựng chi bộ, phát triển đảng viên ở các khối, xóm, bản chưa có chi bộ, chưa có đảng viên và khối, xóm, bản có nguy cơ không còn chi bộ giai đoạn 2016-2020" ở các địa bàn khu vực biên giới; phát huy hiệu quả vai trò của đội ngũ cán bộ đồn Biên phòng tăng cường về giữ chức danh Phó Bí thư Đảng ủy xã và chuyển sinh hoạt đảng tạm thời về các chi bộ thôn, bản yếu kém đối với việc củng cố cơ sở chính trị. Phát triển sâu rộng trong nhân dân phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mớị theo Chỉ thị số 01/2015/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Bốn là: Lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng, các địa phương phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bộ đội Biên phòng nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về an ninh trật tự, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia; tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động di cư, trái pháp luật của đồng bào Mông khu vực biên giới Tây Nghệ An giai đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”; Đề án “Phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động truyền đạo Tin lành trái pháp luật ở khu vực biên giới Tây Nghệ An giai đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”.
Chỉ đạo lực lượng Bộ đội Biên phòng tỉnh tăng cường công tác quản lý, bảo vệ biên giới, duy trì thực hiện tốt công tác kiểm soát bảo vệ biên giới, kiểm tra xuất nhập cảnh, ngăn chặn vượt biên, di cư trái phép sang Lào; quản lý chặt chẽ người nước ngoài ra vào khu vực biên giới, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài lợi dụng việc thăm thân, nghiên cứu, đầu tư, viện trợ hoạt động từ thiện và tham quan, du lịch... để hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền phát triển đạo Tin Lành trái pháp luật, lôi kéo di cư tự do.
Chỉ đạo các địa phương làm tốt công tác quản lý hành chính dân cư, kịp thời nắm bắt, quản lý chặt chẽ các hộ gia đình có ý định di cư, các đối tượng có biểu hiện tuyên truyền phát triển đạo Tin Lành, kích động, lôi kéo di cư trái pháp luật. Phân loại quản lý đối với người di cư sang Lào nay hồi cư trở về hoặc số do Bạn trao trả để có biện pháp tuyên truyền vận động, quản lý không để các đối tượng tuyên truyền, lôi kéo người dân tiếp tục di cư trái pháp luật.
Năm là: Đẩy mạnh công tác đối ngoại, phối hợp chặt chẽ với chính quyền 3 tỉnh của nước bạn Lào trong giải quyết vấn đề di cư và kết hôn không giá thú. Chỉ đạo các địa phương khu vực biên giới duy trì thực hiện tốt việc giao ban, trao đổi tình hình có liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ biên giới, đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như các vấn đề có liên quan đến giải quyết vấn đề di cư và kết hôn không giá thú; tổ chức ký kết nghĩa cho 21 cặp Bản – Bản hai Bên biên giới theo Chỉ thị số 12/2013/CT-UBND ngày 16/4/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc tổ chức phong trào ký kết nghĩa giữa các cụm dân cư hai bên tuyến biên giới Việt Nam – Lào và ký kết nghĩa giữa 8 đồn Biên phòng với 8 đơn vị làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới thuộc 3 tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng và Bôlykhămxay của nước Bạn Lào.