📞

Logistics trong thời đại công nghệ 4.0 (Kỳ 1)

TS. Đoàn Duy Khương 20:00 | 22/03/2023
Logistics ngày càng đóng vai trò trung tâm của chuỗi cung ứng. Việc ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics còn nhiều hạn chế và đang đối mặt với khoảng cách lớn về trí tuệ nhân tạo.
Với sự phát triển của công nghệ số, logistics ngày càng đóng vai trò trung tâm của chuỗi cung ứng. (Nguồn: Internet)

Trên thế giới, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ với sự phát triển của kinh tế thị trường và thời đại công nghệ 4.0. Ngày nay, người ta không chỉ nói đến quy luật tự nhiên “vạn vật hấp dẫn” (universal gravitation) mà còn nói nhiều đến quy luật nhân tạo “vạn vật kết nối” (Internet of things) nhờ sự tiến bộ của khoa học và công nghệ số.

Đối với nền kinh tế, nguồn lực sản phẩm là một trong năm nguồn lực kinh tế xã hội chủ yếu. Nguồn lực sản phẩm tập hợp các tài sản vật chất, cơ sở hạ tầng và công nghệ… được tạo ra bằng các hoạt động sản xuất để sẵn sàng góp phần vào sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ.

Các sản phẩm của ngành sản xuất công nghiệp là phương tiện sản xuất không thể thiếu và là nguồn lực nền tảng cho các nguồn lực khác được sử dụng hiệu quả, đảm bảo sức mạnh bền vững quốc gia vì nó thường đóng góp quan trọng vào bốn mục tiêu vĩ mô quan trọng: Tăng trưởng GDP và cung cấp việc làm; nguồn lực chính phát triển thương mại và dịch vụ; giảm thâm hụt thương mại; nội dung chính trong các chương trình nghị sự bền vững kể cả an ninh quốc phòng.

Với sự thay đổi của khu vực và thế giới, có hai lĩnh vực trọng tâm lớn nhất được đặt ra trong nền kinh tế: Tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng sản phẩm. Ngành hậu cần logistics là một phần của quản lý chuỗi cung ứng liên quan đến dòng chảy hiệu quả của hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ theo nhu cầu của khách hàng.

Với sự phát triển của công nghệ số, logistics ngày càng đóng vai trò trung tâm của chuỗi cung ứng. Logistics không chỉ có chi phí đầu tư lớn và tác động mạnh đến giá cả sản phẩm (trung bình chiếm khoảng 5% GDP, 20% giá cuối cùng của hàng hóa) mà nó còn có tính chất quyết định chất lượng của thương mại quốc tế khi bất kể khoảng cách xa, gần, mỗi khách hàng đều mong muốn sản phẩm của mình được giao một cách nhanh chóng và hoàn hảo nhất.

Việc áp dụng chuyển đổi kỹ thuật số trong hậu cần logistics khá chậm chạp so với các ngành khác trong những thập niên trước. Tuy nhiên, trong năm năm trở lại đây, ngành công nghiệp này đã chứng kiến sự xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ hơn với các công ty công nghệ khi lĩnh vực này đang mở ra một thị trường trị giá hàng trăm tỷ USD. Theo các báo cáo thống kê, 2,3 nghìn tỷ USD trên toàn thế giới sẽ được đầu tư vào công nghệ và dịch vụ cho phép số hóa vào năm 2023. Điều này cho thấy các doanh nghiệp logistics có thể hưởng lợi như thế nào từ công nghệ kỹ thuật số.

Nền kinh tế mở - cơ hội phát triển logistics

Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mở, dựa vào thương mại quốc tế khi có quan hệ kinh tế song phương với trên 230 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 60 nền kinh tế. Năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt 670 tỷ USD, gấp gần hai lần Tổng sản phẩm quốc nội GDP.

Việt Nam cũng có vị trí địa - chính trị quan trọng trong khu vực, đặc biệt là trên Biển Đông - tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Biển Đông mang tầm quan trọng chiến lược to lớn: Ngoài tiềm năng về năng lượng, khoáng sản và hải sản, số liệu thống kê cho thấy, hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông với lượng thương mại trị giá gần 5,5 nghìn tỷ USD mỗi năm. Nhiều nước và vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore và cả Trung Quốc đại lục.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, Việt Nam đã từng bước nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa giữa các địa phương và kết nối đồng thời với các nước khu vực thông qua ba loại cửa khẩu bao gồm: Cửa khẩu đường bộ ở các điểm nút giao thông trong nước thông với nước ngoài (Móng Cái - Quảng Ninh, Hữu Nghị - Lạng Sơn, Lao Bảo - Quảng Trị, Mộc Bài - Tây Ninh); Cửa khẩu đường biển đặt tại các cảng biển: Cửa khẩu cảng Hải Phòng, Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), Cảng Sài Gòn (TP. Hồ Chí Minh), Cảng Cà Ná (Ninh Thuận); Cửa khẩu hàng không đặt tại các sân bay quốc tế trong nước như: Nội Bài, Tân Sơn Nhất (TP. Hồ Chí Minh), Cát Bi (Hải Phòng), Cam Ranh (Nha Trang)…

Về đường biển, hệ thống cảng biển được đầu tư đồng bộ với năng lực thông quan khoảng 570 triệu tấn/năm. Hai cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép và Lạch Huyện có khả năng tiếp nhận được tàu tải trọng lớn từ 130.000 tấn đến 200.000 tấn đi thẳng bờ Tây nước Mỹ, Canada và châu Âu; cảng chuyên dùng tiếp nhận được tàu từ 100.000 tấn đến 320.000 tấn; từng bước phát triển hệ thống cảng cạn hỗ trợ hiệu quả cho việc khai thác cảng biển, phát triển dịch vụ logistics.

Về đường hàng không, các cảng hàng không quan trọng đã được nâng cấp gồm: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng và xây dựng mới gồm Phú Quốc, Vân Đồn, nâng tổng công suất mạng cảng hàng không đạt khoảng 90 triệu hành khách/năm. Công nghệ điều hành bay hiện đại đảm bảo an toàn, tăng hiệu quả khai thác hạ tầng cảng hàng không.

Thay đổi nhận thức,tận dụng số hóa

Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics nói riêng và trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế và đang đối mặt với khoảng cách lớn về trí tuệ nhân tạo (AI).

Theo số liệu thống kê, năm 2019, các nước Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines trung bình chỉ đầu tư dưới 1 USD trên đầu người vào phát triển AI. Trong khi đó, con số này tại Singapore là 68 USD, Trung Quốc 21 USD và Mỹ đạt 155 USD. Điều đó đặt ra những thách thức cho Việt Nam cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để tận dụng nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Ngoài ra, chuyển đổi kỹ thuật số cũng có nhiều rủi ro. Một cuộc khảo sát gần đây với các giám đốc và giám đốc điều hành cấp cao cho thấy, rủi ro chuyển đổi kỹ thuật số (DT) là mối quan tâm số 1 của họ trong năm 2019 vì 70% các sáng kiến DT không đạt được mục tiêu của họ. Trong số 1,3 nghìn tỷ USD đã được chi cho DT năm 2022, ước tính rằng 900 tỷ USD đã bị lãng phí. Tại sao một số nỗ lực DT thành công và những nỗ lực khác lại thất bại?

Về cơ bản, đó là vì công nghệ kỹ thuật số đều cung cấp khả năng tăng hiệu quả và làm hài lòng khách hàng. Nhưng nếu doanh nghiệp thiếu tư duy để thay đổi, hạ tầng không đồng bộ và không có phương thức tổ chức triển khai thực hiện chiến lược chuyển đổi phù hợp thì sẽ dẫn đến sự thất bại và khi đó, DT sẽ chỉ đơn giản là công cụ phóng đại những thất bại.

Chính vì vậy, để ứng dụng tốt chuyển đổi số trong ngành công nghiệp logistics, doanh nghiệp cần nhận thức có thể tận dụng quá trình số hóa để đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như: Tăng hiệu quả, xây dựng lòng tin giữa các đối tác thương mại và các bên liên quan; định tuyến cung ứng tối ưu, quản trị tốt phương tiện vận tải; ra quyết định thông minh trên công cụ điện toán nhận thức và hỗ trợ phát triển AI…

Thực tế cho thấy, công nghệ số sẽ giúp ngành logistics vượt qua các thách thức bằng cách tối ưu hóa quy trình, giao tiếp từ đầu đến cuối, quản lý chuỗi cung ứng, cải thiện trải nghiệm của khách hàng và kiểm soát chi phí. Theo một nghiên cứu mới, công nghệ số nói chung và AI nói riêng có thể chuyển nền kinh tế khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam, sang một nấc thang cao hơn. Nếu các thành viên ASEAN bắt kịp tốc độ áp dụng AI, họ có thể tăng thêm gần 1 nghìn tỷ USD (riêng Việt Nam trên 100 tỷ) vào GDP của khu vực năm 2030.

Nền kinh tế toàn cầu đang trải qua quá trình chuyển đổi kỹ thuật số. Các công nghệ kỹ thuật số hiện đại là những công cụ giúp quá trình này trở nên khả thi. Do đó, tầm quan trọng của công nghệ kỹ thuật số trong ngành hậu cần là rất rõ ràng và hiện hữu.

[còn nữa]

(Tham khảo: https://www.globalalumni.gov.au/alumni-stories/dr-doan-duy-khuong)