📞

Năm 2020: Điểm nhấn hữu nghị, hợp tác và phát triển trong quan hệ Việt - Trung

11:00 | 18/01/2020
TGVN. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai nhận định, với nhiều hoạt động thiết thực hướng tới kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc, năm 2020 là năm bản lề quan trọng, góp phần đưa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước lên một nấc thang mới.
Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai.

Những dấu ấn trong quan hệ song phương Việt Nam – Trung Quốc trong năm 2019 là gì, thưa Đại sứ?

Trong năm 2019, quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc về tổng thể duy trì đà phát triển tích cực, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của mỗi nước cũng như cho hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới, thể hiện rõ trên 4 phương diện sau:

Thứ nhất, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc phát triển ổn định và không ngừng đi vào chiều sâu, tin cậy chính trị được tăng cường. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã thăm Trung Quốc và dự Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế “Vành đai và Con đường” lần thứ 2 (4/2019); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thăm chính thức Trung Quốc (7/2019). Các chuyến thăm và tiếp xúc giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đã phát huy vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định.

Tôi cũng vui mừng nhận thấy, những năm qua, giao lưu hợp tác giữa các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục diễn ra sôi động và ngày càng thực chất. Hai nước hiện có hơn 50 cơ chế giao lưu, hợp tác ở tất cả các kênh: Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, Bộ ngành và địa phương.

Thứ hai, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư duy trì tăng trưởng ổn định, trở thành điểm sáng trong quan hệ hai nước. Từ đầu năm 2019, tuy kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, nhưng hợp tác kinh tế thương mại hai nước vẫn duy trì tăng trưởng. Hai nước là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nhau. Việt Nam 4 năm liền là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và đối tác thương mại lớn thứ 8 của Trung Quốc trên thế giới, Trung Quốc liên tục 16 năm liền là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam kể từ năm 2004.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc trong 11 tháng năm 2019 đạt hơn 106 tỷ USD, tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm 2018. Còn số liệu thống kê của Trung Quốc cho thấy, tổng kim ngạch thương mại hai chiều trong 11 tháng năm 2019 đạt 145,5 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2018. Dự báo kim ngạch thương mại hai chiều cả năm 2019 vượt mức 150 tỷ USD.

Về đầu tư, Trung Quốc hiện là nhà đầu tư FDI lớn thứ 7 trong 132 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Theo đó, Trung Quốc đứng thứ 2 trong 107 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư mới tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký đạt 2,28 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với năm 2018.

Thứ ba, giao lưu nhân dân đã thực sự trở thành một trong những trụ cột quan trọng của quan hệ hai nước. Trung Quốc là thị trường khách du lịch lớn nhất của Việt Nam, trong khi Việt Nam là thị trường khách du lịch lớn thứ hai của Trung Quốc trong ASEAN. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, 11 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đón tổng cộng 16 triệu lượt khách du lịch nước ngoài, trong đó, lần đầu tiên, khách du lịch Trung Quốc đạt trên 5 triệu lượt người. Trong năm 2019, nhiều đường bay thẳng mới đã được mở thêm. Hiện nay, trung bình mỗi tuần có trên 600 chuyến bay giữa các địa phương hai nước. Bên cạnh đó, hợp tác văn hóa, giáo dục, giao lưu nhân dân góp phần quan trọng vào việc tăng cường hiểu biết và củng cố nền tảng xã hội cho quan hệ song phương.

Thứ tư, đường biên giới trên bộ tiếp tục được duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Giao lưu và hợp tác giữa các địa phương, nhất là các địa phương biên giới, không ngừng thúc đẩy cả về chiều rộng và chiều sâu, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.

Về tình hình Biển Đông, tuy có những thời điểm nảy sinh vụ việc phức tạp nhưng hai bên vẫn duy trì đối thoại ở nhiều cấp, nhiều kênh, nhất trí cùng nhau nỗ lực kiểm soát bất đồng, xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình; thúc đẩy các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển đạt tiến triển; cùng ASEAN thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sớm đạt thỏa thuận về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu lực, hiệu quả; kiên trì giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982.

Ngày 18/1/2020, Việt Nam và Trung Quốc kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Xin Đại sứ cho biết, Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh đã chuẩn bị những gì để tổ chức các hoạt động hữu nghị trong năm quan trọng này?

Năm 2020 là năm kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Trung Quốc. Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước từng nhiều lần khẳng định, quan hệ láng giềng hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các thế hệ lãnh đạo cách mạng tiền bối của hai nước dày công gây dựng và vun đắp là tài sản chung quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần hết sức giữ gìn, bảo vệ và phát huy. Trong các cuộc tiếp xúc, lãnh đạo cấp cao hai nước đều nhấn mạnh, hai bên cần tổ chức trọng thể các hoạt động kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tôi cho rằng, hai bên cần quán triệt ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, coi dịp kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao là cơ hội để đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh và bền vững, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội ở mỗi nước, cũng như hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc coi các hoạt động kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc là một trong những trọng tâm công tác trong năm 2020; đã, đang và sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành, địa phương hai nước tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm, để năm 2020 thực sự là điểm nhấn về hữu nghị, hợp tác, ổn định và phát triển trong quan hệ hai nước.

Trong năm 2020, hai bên sẽ tổ chức nhiều hoạt động chào mừng 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trước mắt, trong tháng 1, Đại sứ quán Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các hội Hữu nghị Đối ngoại nhân dân Trung Quốc tổ chức tốt chiêu đãi kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, phối hợp với các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc) tổ chức thành công Cuộc gặp đầu Xuân lần thứ 4 giữa Bí thư các tỉnh/khu nêu trên.

Trong bối cảnh Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Khu vực (RCEP) đang bước vào giai đoạn hoàn thành gấp rút với việc các bên đồng thuận tới 80% điều khoản, Đại sứ nhận định như thế nào về vai trò và tác động của RCEP tới quan hệ kinh tế Việt Nam-Trung Quốc?

Sau 7 năm đàm phán, với 29 vòng thương lượng chính thức, 10 quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và 5 đối tác thương mại (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand) đã nhất trí với các điều khoản của Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) để hướng tới mục tiêu ký kết Hiệp định vào năm 2020. Việc hoàn tất đàm phán được đánh giá là “thắng lợi to lớn và mang ý nghĩa biểu tượng cao”. Việc này đánh dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói riêng cũng như của tất cả các nước tham gia RCEP nói chung, nhất là trong bối cảnh xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên cản trở toàn cầu hóa.

Chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu và một tỷ lệ tương đương về dân số, RCEP được kỳ vọng sẽ mang lại lợi ích kinh tế đáng kể cho tất cả các nước thành viên, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các chuỗi giá trị mới trong khu vực và toàn cầu, thiêt lập cấu trúc thương mại mới trong khu vực, thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa, tiện lợi hóa thương mại một cách bền vững. Ngoài lợi ích về kinh tế, RCEP còn giúp tăng cường tin cậy chính trị, góp phần đem lại thịnh vượng chung và an ninh chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Như đã nói ở trên, Việt Nam và Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nhau. RCEP sẽ tạo ra cơ sở pháp lý và khuôn khổ mới, góp phần thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước. Việt Nam có thêm nhiều cơ hội để tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, góp phần cải thiện cán cân thương mại hai chiều theo hướng cân bằng, bền vững hơn. Tuy nhiên, mặt thách thức cũng không hề nhỏ khi các nước ASEAN khác cũng có cơ hội tiếp cận thị trường Trung Quốc, đồng thời, việc mở cửa thị trường mang tính hai chiều, hàng hóa của Trung Quốc cũng có thể xuất khẩu sang Việt Nam nhiều hơn. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải tăng năng lực cạnh tranh, phải tuân thủ các yêu cầu về tiêu chuẩn và chất lượng khắt khe. Mặc dù vậy, với lợi thế về vị trí địa lý và tính bổ trợ của cơ cấu kinh tế, xét tổng thể, RCEP sẽ đem lại nhiều thuận lợi hơn thách thức trong quan hệ hợp tác kinh tế Việt-Trung.

Kể từ ngày 16/7/2019, cặp cửa khẩu song phương Chi Ma (Lạng Sơn, Việt Nam) và Ái Điềm (Quảng Tây, Trung Quốc) đi vào hoạt động và chính thức được thông quan.

Sau hơn ba tháng nhận nhiệm vụ Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại Trung Quốc, những ưu tiên của Đại sứ trong nhiệm kỳ này là gì?

Được cử làm Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc là một vinh dự, đồng thời là trách nhiệm lớn lao. Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đồng thời là nước láng giềng quan trọng, có quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác nhiều mặt với Việt Nam nhưng giữa hai nước vẫn còn tồn tại một số bất đồng, nhất là về vấn đề trên biển. Trên cơ sở quán triệt thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, những định hướng lớn của Hội nghị Ngoại giao 30 và chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Ngoại giao, tôi xác định trong nhiệm kỳ của mình cần tập trung triển khai tốt một số công việc sau:

Về chính trị: Thúc đẩy, thu xếp tốt các chuyến thăm, tiếp xúc giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước. Với sự tương đồng về thể chế chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc, có thể nói các chuyến thăm cấp cao có vai trò hết sức quan trọng đối với quan hệ hai Đảng, hai nước, góp phần tăng cường tin cậy chính trị. Trong các cuộc tiếp xúc cấp cao, Lãnh đạo Việt Nam luôn trao đổi chân thành, thẳng thắn với Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc về mối quan tâm, lập trường, chính sách của Việt Nam, để Trung Quốc hiểu rõ hơn quan điểm nhất quán của Việt Nam trong thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại cũng như vị thế, vai trò quốc tế của Việt Nam, hiểu rõ hơn về thiện chí của Việt Nam trong việc thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển lành mạnh, ổn định cũng như giữ gìn hòa bình, ổn định ở khu vực.

Về các lĩnh vực hợp tác song phương: Tập trung thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại phát triển cân bằng, bền vững; tranh thủ thị trường và tiềm lực kinh tế của Trung Quốc, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các ngành công nghệ cao, bảo vệ môi trường, nông nghiệp chất lượng cao,...; tận dụng cơ hội từ chiến lược phát triển của Trung Quốc, nhất là các sáng kiến hợp tác khu vực như “Vành đai và Con đường”, Mê Công - Lan Thương để phục vụ phát triển kinh tế, kết nối khu vực và bảo đảm an ninh nguồn nước của Việt Nam; nỗ lực góp phần giải quyết một số tồn tại trong hợp tác kinh tế - thương mại mà người dân, doanh nghiệp Việt Nam quan tâm như: tình trạng nhập siêu, tồn tại, vướng mắc trong một số dự án hợp tác giữa hai nước, tạo thuận lợi hơn nữa cho nông sản Việt Nam xuất sang thị trường Trung Quốc. Tiếp tục phát huy vai trò cầu nối của Đại sứ quán và các cơ quan đại diện Việt Nam tại Trung Quốc trong việc tăng cường hợp tác giữa các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp của Việt Nam với Trung Quốc.

Về vấn đề biên giới lãnh thổ: Phát huy những thành quả hợp tác quản lý biên giới trên bộ giữa hai nước, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Kiên trì trao đổi để cùng nhau thực hiện nghiêm túc nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc cần kiểm soát bất đồng, không để vấn đề trên biển ảnh hưởng đến quan hệ hai nước, nỗ lực cùng các bên liên quan duy trì hòa bình, ổn định ở trên biển, trong khu vực và trên thế giới. Thúc đẩy các kênh đối thoại, các cơ chế đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề trên biển. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.