📞

Nạn nhân bị hiếp dâm và thách thức trong việc tiếp cận công lý

17:49 | 21/03/2018
Chiều 21/3, tại Hà Nội đã diễn ra buổi công bố nghiên cứu: “Xét xử tội hiếp dâm: Tìm hiểu cách ứng phó của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở Thái Lan và Việt Nam”.

Buổi hội thảo do Cơ quan Liên hợp quốc (LHQ) về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) cùng với cơ quan Phòng chống Ma túy, Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm (UNODC) phối hợp tổ chức.

Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Kamal Malhotra - Điều phối viên thường trú LHQ tại Việt Nam nhấn mạnh, những chính sách và ứng phó của cơ quan chức năng đối với các vụ bạo lực tình dục cần được điều chỉnh phù hợp với những nhu cầu, những ưu tiên cụ thể và đa dạng của các nạn nhân là phụ nữ và trẻ em gái.

Ông Kamal Malhotra phát biểu khai mạc. (Ảnh: M.P)

Ông Malhotra nêu rõ: “Cùng với những nỗ lực để ngăn chặn ngay bạo lực, các hoạt động ứng phó của ngành tư pháp là vô cùng quan trọng để có thể chấm dứt chu kỳ bạo lực. Cần truyền tải thông điệp rõ ràng rằng bất kỳ hành động bạo lực nào đối với phụ nữ và trẻ em gái đều không thể chấp nhận. Các nhà cung cấp dịch vụ tư pháp có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái, buộc các thủ phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình”.

Nghiên cứu được công bố tại sự kiện chỉ ra rằng, phần lớn nạn nhân của các vụ hiếp dâm ở Thái Lan và Việt Nam đề phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong việc tiếp cận công lý. Đáng chú ý là theo kết quả nghiên cứu, mặc dù điều tra về các vụ việc bạo lực tình dục là phức tạp và đầy thách thức, nhưng ở cả Thái Lan và Việt Nam lại chưa có các đơn vị điều tra chuyên biệt , cán bộ tiếp nhận và điều tra viên được đào tạo sơ sài hoặc không được đào tạo chuyên biệt. Trong khi đó, thủ tục tố tụng của tòa án có thể rất lâu và kéo dài, và thường tập trung vào chứng cứ vật chất hoặc chứng cứ pháp y, hay dựa vào độ tin cậy đối với nạn nhân chứ không phải độ tin cậy của vụ việc hoặc yếu tố không có sự đồng thuận của nạn nhân. Chính việc trì hoãn quá lâu làm cho nhiều nạn nhân phải nản chí và bỏ cuộc giữa chừng.

Các chuyên gia tham dự chụp ảnh kỷ niệm. (Ảnh: M.P)

Trình bày báo cáo tại hội thảo, bà Anna-Karin Jatfors, Phó Giám đốc UN Women khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho biết: “Nghiên cứu cho thấy có những rào cản phổ biến trong việc tiếp cận công lý mà những nạn nhận bị xâm hại tình dục đang gặp phải. Hiểu được rào cản giữa nạn nhân của bạo lực tình dục đối với công lý sẽ là bước quan trọng để đòi lại sự công bằng cho các nạn nhân”.

Nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều yếu tố chính trong các vụ hiếp dâm trái ngược hoàn toàn với các quan niệm phổ biến về bạo lực tình dục. Thông thường các vụ hãm hiếp thường xảy ra ở nơi công cộng, nhưng trên thực tế ở Việt Nam 86% nạn nhân được hỏi nói rằng họ biết người tình nghi là thủ phạm và 76% nạn nhân không có dấu hiệu thương tích rõ rệt. Những phát hiện này từ nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng đối với cách các hệ thống pháp lý xử lý tội phạm liên quan đến tình dục và tương tác với các nạn nhân bị bạo lực tình dục.