Có rất nhiều tin đồn về ông, tin đồn về tình yêu, tin đồn về những thăng trầm trong sự nghiệp v.v... Những tin đồn đó đúng được bao nhiêu phần trăm? Sự thật về cuộc đời nhà văn Nguyễn Đình Thi như thế nào?
Nhà văn Hoàng Hữu Các đã khổ công đi gặp gỡ nhiều người, nhiều nhân chứng, tra cứu nhiều tài liệu và cung cấp cho bạn đọc những chi tiết chân thực về nhà văn hóa nổi tiếng này.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20 tháng 12 năm 1924 tại Luang Prabang (Lào). Thân phụ của ông gốc người Ấn Độ, thân mẫu của ông là người Hoa. Một viên chức ngành dây thép (bưu điện) của Pháp được điều động sang Luang Prabang làm việc. Ở đó, ông yêu một phụ nữ người Hoa và sinh ra Nguyễn Đình Thi.
Sau này Nguyễn Đình Thi cùng bố mẹ ngồi trên lưng ngựa, qua cửa khẩu Lao Bảo mà về Hà Nội. Nhìn kĩ ông Thi từ dáng người đến đôi mắt, nước da ta thấy rất giống người Ấn Độ. Các con ông, kiến trúc sư Nguyễn Đình Lễ - trưởng nam, nhà văn Nguyễn Đình Chính - thứ nam, cô con gái út Nguyễn Thùy Như đều có nét gì đó rất Ấn Độ.
Về Hà Nội, Nguyễn Đình Thi học trường Luật, là sinh viên luật giỏi nhất Đông Dương, được Toàn quyền Pháp rất chú ý. Chính phủ Pháp muốn đưa Nguyễn Đình Thi sang Paris tu nghiệp và hứa hẹn sẽ bố trí một ghế quan trọng trong chính phủ ở An Nam nhưng Nguyễn Đình Thi đã từ chối.
Đây là một chi tiết về tiểu sử không có lợi cho nhà văn Nguyễn Đình Thi. Mỗi khi cơ cấu lại bộ máy lãnh đạo ngành văn nghệ nước ta thì chi tiết Nguyễn Đình Thi được Pháp ưu ái nâng đỡ lại được nêu ra và ông đành phải chấp nhận một vị trí khiêm tốn…
Những ngày đầu tiên về Hà Nội, Nguyễn Đình Thi biên dịch một loạt tác phẩm triết học, cho in thành sách, bán cho sinh viên con nhà giàu để lấy tiền ăn học. Vì thế mà có không ít văn bản chính thức nói về thân thế Nguyễn Đình Thi, sau khi đã liệt kê ông là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia còn phong thêm cho ông danh hiệu “nhà triết học”.
Khi tôi hỏi về danh hiệu này thì Nguyễn Đình Thi mỉm cười: “Ông Trần Đức Thảo mới thật là nhà triết học. Còn mình thì không xứng với danh hiệu đó. Mình chỉ dịch mấy cuốn sách triết học thôi. Nhưng nhờ công việc đó mà mình biết tới triết học Mác. Hồi đó, dịch triết học Mác bị xem là một tội nhưng mình và một số bạn bè vẫn dịch và vẫn nghiên cứu, vì sinh viên luôn thích cái mới mà triết học Mác lúc đó là rất mới”.
Sau khi bố mẹ qua đời, Nguyễn Đình Thi sống trong cảnh nghèo túng. Một cử nhân, cho dù là giỏi nhất Đông Dương nhưng không ra làm việc cho Pháp thì kiếm sống cũng chật vật. Sau khi lấy vợ, Nguyễn Đình Thi ở rể, sống tại nhà vợ, vì ông chưa có nhà riêng. Cung trạch cát của ông không tốt lắm.
Có một nhà văn cùng trang lứa đã nói với Nguyễn Đình Thi rằng: “Cả đời ông không có nhà riêng”. Đúng như thế, ông Thi chưa bao giờ mua hoặc làm được cho mình một căn nhà nào. Cả đời ông ở nhà cơ quan phân cho nhưng không ngôi nhà nào ông ở được lâu, vì tất cả đều rơi vào tay đàn bà.
Người ta đồn rằng nhà văn Nguyễn Đình Thi có nhiều vợ, thậm chí có tin đồn rằng ông có con riêng và người con ấy cũng là một nhà văn. Vậy đường tình duyên của Nguyễn Đình Thi như thế nào?
Người vợ đầu tiên của nhà văn Nguyễn Đình Thi là bà Bùi Nữ Trâm Nguyệt Nga. Đây chính là thân mẫu của kiến trúc sư Nguyễn Đình Lễ, nhà văn Nguyễn Đình Chính và Nguyễn Thùy Như. Trong di chúc của mình, nhà văn Nguyễn Đình Thi có ghi rõ ràng họ tên các con của ông và ngoài ba người kể trên ra không có tên một người nào khác.
Năm 1951, bà Bùi Nữ Trâm Nguyệt Nga qua đời ở chiến khu Việt Bắc, sau đó nhà văn Nguyễn Đình Thi thành hôn với một bác sĩ cũng ở chiến khu, tên là Trường.
Bà Trường bị bệnh nặng, phải điều trị nhiều năm tại bệnh viện Việt Xô và cũng qua đời tại đây. Những năm cuối cùng nhà văn Nguyễn Đình Thi sống với nghệ sĩ điện ảnh Tuệ Minh tại một biệt thự nhỏ ở phố Vạn Bảo.
Tiếng đồn nhiều nhất trong đời sống tình cảm của nhà văn Nguyễn Đình Thi là những người tình của ông. Giới văn nghệ có thể kể vanh vách họ tên những người đẹp trong cuộc đời của Nguyễn Đình Thi, trong đó có hai diễn viên múa từng nổi tiếng về nhan sắc và cũng đã từng làm lao đao nhiều văn nghệ sĩ.
Trong khi biên tập cuốn “Nguyễn Đình Thi bí mật một cuộc đời”, tôi có tham khảo ý kiến nhà thơ Hoàng Cầm và ông đã bác bỏ tin đồn này.
Nhà thơ Hoàng Cầm kể: “Năm 1954, đoàn văn công Tổng cục Chính trị được lệnh về tiếp quản thủ đô. Đoàn của chúng tôi hơn bảy chục người, được cấp trên cho kén chọn những diễn viên ưu tú nhất trong số hơn hai trăm nam nữ diễn viên và nhạc sĩ, kịch sĩ ưu tú của toàn quân. Đoàn đóng quân và làm việc ở mấy tòa biệt thự đối diện nhà thờ Liễu Giai.
Suốt thời gian từ ngày 10/10/1954 đến hết năm dương lịch, hầu như chúng tôi phải biểu diễn cả ngày và đêm, ở các sân khấu thủ đô, trong sân hoặc thềm nhà một số xí nghiệp, nhà máy, công sở, trường trung học, rồi đình chùa, sân phơi thóc các thôn làng ngoại thành. Thường thì đêm diễn, ngày phải ôn luyện rất nhiều tiết mục đơn ca, tốp ca, đồng ca, ngâm thơ, kịch nói, kịch dân ca, múa dân tộc, múa nước ngoài...
Công việc thì bề bộn mà kỉ luật làm việc trong quân đội lại rất nghiêm, hầu như không có ngày nghỉ trong cả tuần, cả tháng. Trong những ngày tháng tưng bừng rộn rã ấy, anh Thi còn phải nằm điều dưỡng ở Quế Lâm, Trung Quốc.
Đầu năm 1955, tôi mới thấy anh xuất hiện ở Hà Nội. Một sớm vào khoảng 8 giờ, các diễn viên của tôi đã bắt đầu vào chương trình luyện tập. Anh Thi đi xe đạp thẳng đến cái biệt thự được chọn làm trụ sở của đoàn. Được báo tin có khách, tôi vội xuống nhà, anh Thi bắt tay tôi rất ân cần và nói se sẽ nhưng khẩn khoản:
- Anh Cầm, cho phép mình gặp Th. L. một lát, chỉ dám xin anh mười phút thôi.
Trước sau, dẫu suốt những năm kháng chiến chống Pháp, với tôi, anh Thi rất “người dưng nước lã”, nhưng tôi vẫn giữ một lòng yêu mến kính trọng anh. Thấy anh nói có vẻ khẩn khoản, tôi phá tan ngay cái không khí rụt rè, khép nép kia đi:
- Anh Thi, sao lại mười phút? Mời anh vào phòng làm việc riêng của tôi. Thi có thể chuyện trò với cô ấy ít nhất trong vòng một giờ .
Tôi dẫn anh vào phòng, anh cần vụ của đoàn mang lên một phích nước sôi, ấm chén và một gói trà loại ngon nhất. Tôi thân mật nói:
- Thi ngồi đây nhá. Mình sang chỗ phòng tập, mời Th. L. về.
Anh Thi vẻ mặt rạng rỡ. Tôi sang phòng tập yêu cầu nhạc sĩ Lê Đóa chuyển cái tiết mục có Th. L. tập xuống dưới, cách ra độ một tiếng và dẫn Th. L. về gặp anh Thi. Thấy Th. L. hơi ngần ngại, tôi phải nói ngay:
- Ô hay! Có việc gì ghê gớm đâu mà trông em có vẻ sợ sệt thế! Chả là anh Nguyễn Đình Thi, bạn anh, là Tổng thư kí Hội Văn nghệ ấy mà, anh Thi muốn gặp em để hỏi chuyện về nghệ thuật ca múa thôi, em có đồng ý cho anh ấy gặp em không? Cô Th. L. vẫn có vẻ e dè, tôi nói vui:
- Em thì chắc là chưa quen biết lắm. Anh Thi cũng như anh thôi mà. Anh chị em cùng một gia đình văn nghệ sĩ cả, có quan to quan bé gì đâu mà em ngại. Nào nếu em đồng ý thì đi với anh.
Tuy khép nép, Th. L. vẫn tươi tỉnh đi theo tôi. Th. L. mới 18 tuổi còn rất ngây thơ, nhưng tôi tin cuộc “tao ngộ” giữa một người lãnh đạo văn nghệ từng trải và một diễn viên múa mà tôi vui lòng thu xếp cho cuộc gặp này, dẫu chẳng đi tới chỗ tốt đẹp cho cả hai người thì cũng “vô thưởng vô phạt”.
Sau buổi đó, tôi nghĩ tôi với anh Thi sẽ trở thành hai người bạn thơ khăng khít, cùng đem hết khả năng để làm việc cho một nền thi ca rực rỡ của dân tộc và đất nước. Vậy mà, rồi sau, có lẽ do vị trí xã hội của hai người có một khoảng cách khá xa nên không vẫn hoàn toàn không.
Theo Tuổi Trẻ Thủ Đô