Ông Biden phát biểu tại Nhà Trắng, Mỹ, ngày 8/7. (Nguồn: Getty) |
Khi Tổng thống Mỹ Joe Biden ngồi vào chiếc ghế ở Nhà Trắng, ông quả quyết rằng học thuyết “Nước Mỹ trên hết” theo chủ nghĩa biệt lập của người tiền nhiệm Donald Trump đã chấm hết và thay vào đó là chính sách “Nước Mỹ đã trở lại, ngoại giao đã trở lại”.
Nói cách khác, ông Biden cam kết rằng nước Mỹ sẽ tái gắn kết với thế giới và lãnh đạo hệ thống trật tự toàn cầu một lần nữa.
Chính quyền ông Biden đã thông qua hàng chục sắc lệnh hành pháp để đảo ngược chính sách thời Tổng thống Trump nhằm đem nước Mỹ trở lại. Trong số đó, có quyết định tái tham gia Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, gỡ bỏ lệnh cấm người Hồi giáo đi du lịch đến Mỹ và dừng tiến trình rời khỏi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Tuy nhiên, ông Biden đã không thể thay đổi một vài vấn đề ở các khu vực, trong đó có tiến trình hòa bình ở Trung Đông.
Ví dụ, dường như ông Biden sẽ không chuyển Đại sứ quán Mỹ về lại Tel Aviv hoặc ngăn chặn các khu định cư mới của người Israel trên đất của người Palestine.
Hơn nữa, ông Biden cũng không đạt được những bước tiến quan trọng trong những vấn đề chủ chốt như cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế và vấn đề thương mại toàn cầu.
Ông Biden hứa hẹn và cho rằng nước Mỹ đã trở lại. Tuy nhiên, thế giới đã khác trước và sự sắp xếp chính trị nội địa của Mỹ cũng đã thay đổi.
Cả môi trường bên trong và bên ngoài đều có nhiều thay đổi. Theo tác giả bài viết, có một số yếu tố khiến cho việc hiện thực hóa những cam kết của Tổng thống Biden trở nên phức tạp. Cụ thể như sau:
Động lực của Mỹ
Trên hết, quan hệ của Mỹ và đồng minh đã thay đổi rất nhiều. Mỹ không còn đồng quan điểm với đồng minh về tình hình thế giới và ngược lại. Năm 2019, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron trong một cuộc phỏng vấn đã tuyên bố liên minh NATO ở trong tình trạng “chết não”.
Trong khi đó, tại cuộc hội đàm giữa Tổng thống Biden với Chủ tịch Hội đồng châu Âu Charles Michel và Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen tại Burssels trong Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-EU, ông Biden cho rằng lợi ích của Mỹ có mối quan hệ gắn bó với NATO và EU.
Đáp lại, ông Michel nói: “Nước Mỹ đã trở lại sân chơi toàn cầu. Đây là tin tốt lành cho đồng minh và là tín hiệu tích cực đối với thế giới… Chúng tôi rất vui khi được làm việc với Ngài (Biden) để cùng giải quyết những thách thức quan trọng toàn cầu”.
Bà von der Leyen tỏ ra thận trọng hơn. “Thế giới đã thay đổi nhiều và châu Âu cũng vậy, nhưng chúng tôi muốn một lần nữa cam kết với Ngài cùng các bạn bè và đồng minh rằng chúng tôi rất trông đợi cùng nhau hợp tác (với Mỹ)”.
Rõ ràng, những nhận thức của Mỹ cũng như các đồng minh châu Âu về các mối đe dọa đã thay đổi. Trong thời gian diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh NATO mới đây, mặc dù Mỹ cố gắng nhấn mạnh những mối đe dọa thông thường mà các thành viên NATO đang đối mặt, các nước châu Âu là thành viên NATO lại cố gắng làm nổi bật những mối đe dọa "không thông thường" đối với chương trình nghị sự của NATO, như biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, các nước châu Âu có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với Nga ngày càng nhiều hơn cũng không muốn theo chân Mỹ tiếp tục xem Nga là mối đe dọa chính với NATO.
Nhà Quốc hội Mỹ dựng hàng rào bao quanh sau vụ bạo loạn hồi tháng 1. Ảnh chụp ngày 9/7. (Nguồn: Getty) |
Không còn hòa giải, điều tiết
Ở yếu tố thứ hai, Washington không thể và không còn muốn giải quyết mâu thuẫn giữa các nước đồng minh với nhau cũng như không đứng ra hòa giải những vấn đề đó.
Thay vào đó, Mỹ đã bắt đầu đứng về 1 phía trong các cuộc xung đột giữa các đồng minh của mình. Bởi vậy, sự hòa hợp trong quan hệ giữa Mỹ và các đồng minh gần đây trở nên xấu đi.
Đơn cử, Mỹ đã đứng về Hy Lạp trong vấn đề ở khu vực Đông Địa Trung Hải để chống lại Thổ Nhĩ Kỳ.
Thứ ba, các đối thủ của Mỹ đã mạnh lên và có tác động sâu sắc đối với hệ thống chính trị quốc tế. Trung Quốc đã cùng Nga mở rộng ảnh hưởng và bắt đầu dàn xếp những vấn đề chính trị ngoài các vấn đề kinh tế và văn hóa.
Từ nay trở đi, chính phủ Mỹ sẽ gặp khó khăn nếu muốn “xử lý” hai cường quốc toàn cầu - với sức mạnh quân sự của Nga và nền kinh tế khổng lồ của Trung Quốc.
Mỹ có thể sẽ mất ảnh hưởng của mình trong cuộc chơi toàn cầu sau khi mất lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ.
Thứ tư, Mỹ thất bại trong việc ly gián các đối thủ. Chính phủ Mỹ đã không thể tạo ra căng thẳng giữa Trung Quốc và Nga.
Hơn thế nữa, các quốc gia đối thủ của Mỹ lại đang cùng nhau hợp tác tại các diễn đàn khu vực và toàn cầu, như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải(SCO), Nhóm những nền công nghiệp mới nổi BRICS với sự tham gia của Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, G-20, cũng như Liên hợp quốc, để thách thức mối đe dọa từ Mỹ.
Có thể nói, trong khi Mỹ đang phải giải quyết vấn đề lòng tin với đồng minh, các đối thủ của Mỹ tận dụng thời gian để cung cố sự hợp tác.
Niềm tin bị “bốc hơi”
Thứ năm, Mỹ có vấn đề trong quan hệ với các tổ chức quốc tế.
Chính phủ Mỹ đã đánh mất lòng tin tại các tổ chức, chế độ và các quy tắc quốc tế.
Ngay khi Mỹ bắt đầu rút khỏi các tổ chức quốc tế, Trung Quốc và đối thủ khác của Mỹ đã bắt đầu biến các thể chế này thành công cụ để tối đa hóa lợi ích quốc gia của mình và thực hiện những dự án toàn cầu.
Mỹ cũng không còn tin vào các tổ chức và nguyên tắc quốc tế được chính nước này thành lập sau Thế chiến 2. Điều này có nghĩa là Mỹ đang tự cắt bỏ chính công cụ do mình tạo ra để duy trì quyền lãnh đạo với thế giới.
Thứ sáu, Mỹ đã không còn như trước vì sự phân hóa và chia rẽ trong chính trị và xã hội Mỹ.
Đơn cử, cựu Tổng thống Donald Trump nhận được nhiều phiếu bầu hơn bất kỳ người tiền nhiệm nào trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, nhưng vẫn thất cử vì ông Biden nhận được nhiều phiếu bầu phổ thông cũng như ở những bang chiến lược. Trên thực tế, ông Trump đều thua về số phiếu phổ thông trong hai lần tranh cử năm 2016 và 2020.
Điều đó đồng nghĩa với việc xã hội Mỹ bị phân hóa cao. Nói cách khác, căng thẳng giữa người theo chủ nghĩa biệt lập và chủ nghĩa quốc tế, những người của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, người theo chủ nghĩa dân tộc cấp tiến và những người theo chủ nghĩa đa văn hóa ngày càng gia tăng.
Mặt khác, các nhóm chính trị khác ở Mỹ bắt đầu lên tiếng, trong đó có các thành viên cộng đồng người da màu, người Latinh, người Hồi giáo, người theo trường phái tự do dân chủ và các nhóm chính trị gia trẻ tuổi.
Ngờ vực bao trùm
Mỹ sẽ gặp khó khăn để thuyết phục các đồng minh và khôi phục lòng tin trong các mối quan hệ song phương, trong đó có cả quan hệ với các nước châu Âu.
Một mặt, các đồng minh của Mỹ vẫn quan ngại về sự trở lại của ông Trump hoặc những chính trị gia theo tư tưởng Trump sẽ chiến thắng cuộc bầu cử tiếp theo.
Mặt khác, không có gì đảm bảo rằng Mỹ sẽ không trở lại chủ nghĩa biệt lập. Dường như sự ngờ vực giữa Mỹ và đồng minh sẽ còn tiếp diễn.
Cuối cùng, thay vì tuyên bố trở lại vị trí lãnh đạo toàn cầu, Mỹ sẽ tiếp tục rút lui khỏi những trách nhiệm toàn cầu.
Quyết định rút khỏi Afghanistan
Quyết định rút quân khỏi Afghanistan là ví dụ rõ ràng về sự rút lui nói trên.
Chính phủ Mỹ đang rút quân khỏi Afghanistan và bỏ mặc nước này vào tay Taliban - vốn là lý do chính để Washington can dự vào năm 2001.
Ngay khi Mỹ vừa rút quân khỏi quốc gia Nam Á này, Taliban sẽ nhanh chóng lắp đầy khoảng trống quyền lực của Washington.