📞

Phía sau những bản hợp đồng

14:00 | 15/10/2016
Nhờ tính ứng dụng cao, Lý thuyết hợp đồng (contract theory) giúp giải tỏa các mâu thuẫn xuất hiện ở bất cứ nơi đâu trong nền kinh tế hiện đại, mà vẫn duy trì được tính cạnh tranh.

Hai vị giáo sư Oliver Hart của ĐH Harvard và Bengt Holmstrom của Viện Công nghệ Massachusetts vừa trở thành đồng chủ nhân của giải Nobel Kinh tế 2016 vì những nghiên cứu của họ về Lý thuyết hợp đồng – yếu tố đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế ngày nay.

Thông cáo của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển có đoạn: “Kinh tế hiện đại được gắn kết bởi vô số các hợp đồng. Các hợp đồng này chi phối trong thực tiễn từ đơn giản đến phức tạp, cả trong khu vực tư nhân lẫn trong khu vực công, từ quản trị nhà nước, quản trị kinh doanh, mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm với chủ sở hữu xe, hay đơn giản là hợp đồng lao động giữa chủ lao động và người làm thuê... Cảm ơn Hart và Holmstrom vì đã giúp chúng ta hiểu biết thêm về các hợp đồng và ứng dụng trong thực tế, cũng như những cạm bẫy tiềm tàng trong quá trình xây dựng hợp đồng”.

Hợp đồng chi phối cuộc sống

Trong lịch sử các giải Nobel kinh tế, kinh tế vĩ mô thường chiếm ưu thế. Bởi vậy, trong mùa Nobel năm nay, các “ứng cử viên nặng ký” được nhắc đến vẫn là các công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề “nóng” như biến đổi khí hậu, thương mại tự do, tăng trưởng sản xuất… Nhưng cuối cùng, nghiên cứu về vấn đề rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày – Lý thuyết hợp đồng đã được xướng tên thật bất ngờ!

Hai giáo sư Oliver Hart và Bengt Holmstrom được vinh danh tại lễ công bố giải Nobel kinh tế 2016, ngày 10/10. (Nguồn: Reuters).

Các hợp đồng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế hiện đại. Chẳng hạn, trong quản trị nhà nước, các nguyên tắc của lý thuyết hợp đồng sẽ gợi ý các mô hình quản lý tập trung hay phân cấp sẽ mang lại hiệu quả hơn. Trong quản lý kinh tế, lý thuyết hợp đồng gợi ý các nguyên tắc cho việc thiết kế Luật phá sản sao cho mang lại hiệu quả. Đặc biệt, hợp đồng giữ vai trò trụ cột của ngành ngân hàng và bảo hiểm.

Hợp đồng quy định ai sở hữu các tài sản từ hữu hình đến vô hình và họ sẽ có quyền sử dụng tài sản ấy như thế nào. Thông thường, ai cũng có tư lợi, nhưng để tận dụng tối đa các cơ hội kinh tế, người ta thường phải hợp tác và tìm cách phân bổ đều lợi ích hay giảm xung đột lợi ích xuống mức thấp nhất. Đó chính là lý do hợp đồng ra đời và được sử dụng phổ biến.

Với các công trình xây dựng nền tảng cho lý thuyết hợp đồng, Hart và Holmstrom không chỉ giúp thiết kế một bản hợp đồng hợp lý, mà còn giải đáp cả những câu hỏi thú vị hơn qua việc đánh giá các kết quả của hợp đồng: Khi nào nên trả lương cứng, hay trả lương theo hiệu quả công việc? Khi nào doanh nghiệp nên tự làm thay vì thuê ngoài? Trong quản lý nhà nước, ngành nào nên được tư nhân hóa thay vì lập doanh nghiệp nhà nước?...

Các yếu tố tạo nên sự thỏa hiệp

Các nghiên cứu của Hart và Holmstrom chủ yếu tập trung vào sự thỏa hiệp và cân bằng các yếu tố khác nhau để đạt được kết quả tốt nhất trong quá trình lập hợp đồng. Phân tích các hợp đồng bảo hiểm, GS. Holmstrom đã chỉ ra điểm cân bằng giữa hai yếu tố: tính trọn vẹn của một hợp đồng bảo hiểm và nguy cơ có thể xảy ra rủi ro về đạo đức.

  • l Giáo sư Oliver Hart (68 tuổi), người gốc Anh, giảng dạy ở ĐH Harvard từ năm 1993. Ông lấy bằng tiến sĩ ở ĐH Princeton năm 1974, từng là Chủ tịch của Hiệp hội Kinh tế và Luật Mỹ và là Phó Chủ tịch của Hiệp hội Kinh tế Mỹ.
  • l Giáo sư Bengt Holmstrom (67 tuổi) là nhà kinh tế Mỹ gốc Phần Lan, hiện là giáo sư kinh tế tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Ông lấy bằng tiến sĩ ở ĐH Stanford năm 1978. Ông là thành viên của nhiều ban lãnh đạo các viện khoa học và từng là thành viên ban lãnh đạo tập đoàn Nokia.

Một số người cho rằng, khoản tiền mà người mua bảo hiểm y tế thường phải chi trả thêm khi khám bệnh và điều trị là chưa hợp lý, tốt nhất là công ty bảo hiểm nên trả toàn bộ. Tuy nhiên, các khoản tiền này là yếu tố nhằm mục đích cân bằng lợi ích cho công ty bảo hiểm, phòng tránh rủi ro khi đối tác muốn lợi dụng hợp đồng bảo hiểm để trục lợi.

GS. Holmstrom cũng áp dụng lý luận này khi nghiên cứu về việc trả lương theo hiệu suất làm việc vốn đang rất phổ biến trong các doanh nghiệp. Nghiên cứu của ông chỉ ra rằng ngoài hiệu suất của nhân viên, nên tính đến cả hiệu suất về quản lý. Tuy nhiên, để tìm được một thước đo hợp lý không phải là việc dễ dàng.

Cũng nghiên cứu về hợp đồng, nhưng GS. Hart lại chỉ ra những trường hợp mà hợp đồng không thể hoàn hảo vì không dự báo được kết quả. Trong những trường hợp này, việc phân chia quyền quyết định đi kèm với quyền sở hữu đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn, một nhà khoa học làm việc tại phòng R&D sẽ không toàn tâm toàn ý nghiên cứu nếu như không được hứa hẹn sẽ nhận được quyền lợi thỏa đáng với tài sản trí tuệ mà họ đang tạo ra.

Như vậy, bằng một nghiên cứu có những ứng dụng thực tế quan trọng, Hart và Holmstrom đã giúp tổng hòa những mối quan hệ về quyền lực và lợi ích. Hợp đồng khuyến khích những hành vi tốt, đồng thời giúp hạn chế tình trạng lạm quyền, khi mà một bên có quyền chấm dứt hợp đồng nếu các điều khoản bị vi phạm hoặc buộc bên còn lại phải hành xử đúng đắn hơn.