Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ đang gây tranh cãi gay gắt. |
Nội dung công văn nêu rõ: Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhận được ý kiến của một số nhà khoa học, nhà giáo về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ mới được Bộ GD&ĐT ban hành kèm theo Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT ngày 28/6/2021. Về việc này, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam có ý kiến chỉ đạo như sau:
Bộ GD&ĐT nghiên cứu các ý kiến góp ý trên tinh thần cầu thị, nghiêm túc; có hình thức phù hợp để trao đổi ý kiến thật sự khoa học và tiếp thu các ý kiến xác đáng nhằm nâng cao chất lượng và tiếp cận với chuẩn mực quốc tế trong đào tạo tiến sĩ.
Đối với những ngành đặc thù thì có quy định cho phù hợp bảo đảm chất lượng.
PTT Vũ Đức Đam chỉ đạo Bộ GD&ĐT nghiêm túc tiếp thu ý kiến xác đáng nhằm nâng cao chất lượng và tiếp cận với chuẩn mực quốc tế trong đào tạo tiến sĩ |
Trước đó, Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ mới ban hành kèm theo Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT ngày 28/6/2021 (gọi tắt là Quy chế 18) mà Bộ GD&ĐT vừa mới ban hành đã gây tranh cãi gay gắt về tiêu chuẩn đầu ra.
Quy định khiến nhiều ý kiến tranh cãi là với Thông tư 08/2017 quy định: Đã công bố tối thiểu 02 bài báo về kết quả nghiên cứu của luận án trong đó có 01 bài đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI-Scopus hoặc đã công bố tối thiểu 02 báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 02 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện.
Đến thông tư Thông tư 18/2021 "hạ chuẩn" hơn là: NCS là tác giả chính của báo cáo hội nghị khoa học, bài báo khoa học được công bố trong các ấn phẩm thuộc danh mục WoS/Scopus hoặc chương sách tham khảo do các nhà xuất bản quốc tế có uy tín phát hành; và/hoặc bài báo đăng trên các tạp chí khoa học trong nước được Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định khung điểm đánh giá tới 0,75 điểm trở lên. Các công bố phải đạt tổng điểm từ 2,0 điểm trở lên (vì phải là tác giả chính, nên không cần chia điểm cho các đồng tác giả).
Quy chế này của Bộ GD&ĐT áp dụng chung cho cả nước (242 CS GDĐH, 40 Viện nghiên cứu đào tạo tiến sĩ) và áp dụng chung cho các ngành đào tạo. Các cơ sở đào tạo quy định cụ thể và lựa chọn phù hợp với ngành, với nguồn lực để quy định trong quy chế của cơ sở đào tạo yêu cầu NCS phải là tác giả chính của các bài tạp chí/bài hội nghị quốc tế (thuộc chỉ mục WoS/Scopus) và/hoặc các bài báo trong nước (có sự đánh giá của Hội đồng Giáo sư nhà nước).
Tuy nhiên, GS.TSKH Ngô Việt Trung, nguyên Viện trưởng Viện Toán học cho rằng, Quy chế đào tạo tiến sĩ cũ (ban hành năm 2017) quy định luận án tiến sĩ phải công bố 2 bài báo trong đó có 1 bài đăng trên tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus (bài kia có thể đăng trong nước) hoặc 2 bài báo ở nước ngoài.
So với tiêu chuẩn chức danh thì quy định này hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên nó vẫn còn kém các nước Đông Nam Á. Ví dụ như Đại học Malaya (Malaysia) yêu cầu luận án các ngành khoa học tự nhiên phải có 2 bài ISI, các ngành khoa học xã hội có 1 bài ISI hay Đại học Chulalongkorn (Thái Lan) yêu cầu luận án phải có 1 bài ISI.
Quy chế đào tạo tiến sĩ mới hủy bỏ hoàn toàn yêu cầu công bố quốc tế của Quy chế cũ. Thậm chí, luận án chỉ cần có 3 công bố trên các tạp chí trong nước loại trung bình là được bảo vệ. Phần lớn các tạp chí trong nước loại trung bình được xuất bản bởi các trường đại học, quy trình duyệt bài dễ dãi, thậm chí còn tùy tiện.
GS Trung cho hay, ông đã từng thấy có tác giả có đến 5 bài đăng trong cùng một số báo. Chả có mấy người đọc các tạp chí loại này. Qua đó có thể thấy chất lượng các tạp chí này thấp như thế nào. Nguy hiểm hơn, nghiên cứu sinh và thầy hướng dẫn có thể dễ dàng tác động vào quá trình xét duyệt đăng bài, tạo kẽ hở cho việc ra đời các "tiến sĩ rởm".
Lẽ ra, Bộ GD&ĐT cần nâng tiêu chuẩn công bố quốc tế của Quy chế cũ lên để có thể đuổi kịp trình độ đào tạo tiến sĩ của Thái Lan thì họ lại hạ thấp tiêu chuẩn cho phép chỉ cần công bố trong các tạp chí trong nước loại làng nhàng.
Điều này rất nguy hiểm vì các tiến sĩ là lực lượng giảng dạy chủ chốt trong các đại học. Với quy chế mới có thể khẳng định giáo dục đại học ở Việt Nam sẽ còn tụt hậu hơn nữa so với các nước Đông Nam Á.
Trước 2017, chúng ta đã từng xôn xao về các lò tiến sĩ rởm, những nơi có thể đào tạo hàng trăm tiến sĩ mà hầu như không có công bố quốc tế nào. Quy chế cũ đã giúp dẹp bỏ những vấn nạn này chính bởi vì tiêu chuẩn công bố quốc tế mà nghiên cứu sinh khó lòng "chạy" được. Vậy thì tại sao Bộ GD&ĐT lại thay thế Quy chế cũ bằng một quy chế không khác gì thời kỳ nhiều tiêu cực trước 2017?
GS. Trung nhấn mạnh yêu cầu luận án tiến sĩ có công bố quốc tế là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để có "tiến sĩ thật". Không có tiêu chuẩn công bố quốc tế thì những quy định đầu vào, dù có chặt chẽ đến đâu, cùng với các yêu cầu giải trình xã hội, liêm chính học thuật... không thể ngăn cản được việc cho ra lò các "tiến sĩ rởm".
Đồng quan điểm, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, Quy chế mới có nhiều điểm tiến bộ, quy định chi tiết hơn một số điểm so với Quy chế cũ 2017, tuy nhiên, điểm mấu chốt nhất là chuẩn đầu ra về chuyên môn và ngoại ngữ, tính hội nhập quốc tế lại thấp hơn, thụt lùi so với Quy chế 2017.
Quy chế mới bỏ hoàn toàn yêu cầu yêu cầu về công bố quốc tế với nghiên cứu sinh, cũng như thầy hướng dẫn và thành viên hội đồng. Chuẩn đầu ra của Quy chế cũ 2017 cũng chưa phải là cao so với khu vực, chỉ yêu cầu phải có tối thiểu 1 bài trên tạp chí ISI, hoặc 2 bài trên tạp chí quốc tế có phản biện (chưa yêu cầu phải ISI/Scopus), hoặc 2 bài đăng Kỷ yếu hội thảo quốc tế, viết bằng tiếng nước ngoài có phản biện.
GS. Đức nhấn mạnh: "Nếu quy chế mới quy định chuẩn đầu ra thấp như thế, sau 5 hay 10 năm tới, khi lứa tiến sĩ này tốt nghiệp, liệu chất lượng phó giáo sư, giáo sư của chúng ta sẽ như thế nào? Điều này có thể gây ra hệ lụy cho chất lượng đào tạo đại học và sau đại học của Việt Nam".