Hệ thống kiểm soát Radar J FPS-4 trên núi Takao, tỉnh Shimane, Nhật Bản. (Nguồn: Top War) |
Các phương tiện liên lạc (đài radar trên mặt đất, máy bay AWACS, radar máy bay chiến đấu và tàu chiến) và phương tiện hủy diệt hỏa lực (hệ thống phòng không, tên lửa đất đối không và trên biển, máy bay chiến đấu đánh chặn) được liên kết thành một mạng thông tin duy nhất với JADGE ACS thông qua giao thức trao đổi dữ liệu chiến thuật (TDS).
Hệ thống kiểm soát phòng không hiện đại
Chính thức hoạt động năm 2009, hệ thống kiểm soát phòng không JADGE ACS có khả năng xử lý lượng thông tin lớn hơn gấp nhiều lần và phản ứng nhanh nhạy hơn với các mối đe dọa mới so với thế hệ tiền nhiệm của nó.
Ngoài các mục tiêu khí động học, hệ thống có khả năng nhận diện và xử lý các mục tiêu tên lửa đạn đạo và điều động hệ thống phòng thủ tên lửa khống chế chúng.
JADGE ACS tự động xử lý thông tin về hành trình của tất cả các máy bay hoạt động bên trong và xung quanh không phận Nhật Bản, phát hiện theo dõi các máy bay không rõ quốc tịch đang tiếp cận, đưa ra yêu cầu và sẵn sàng hướng các máy bay đánh chặn tấn công nếu xác định tiềm ẩn mối nguy hiểm.
Đối với mục tiêu đạn đạo, hệ thống sẽ tính toán quỹ đạo rơi, cũng như dự đoán vị trí rơi của chúng.
Trong trường hợp mối đe dọa tác động trực tiếp lên lãnh thổ Nhật Bản, JADGE kích hoạt hệ thống phòng không / phòng thủ tên lửa trên mặt đất hiện có như Patriot PAC-3, Type 03 (Chu-SAM), cũng như SM-3 SM-3 Block IB và SM-3 Block IIA chống trả.
Kiểm soát không phận bằng radar hiện đại
Hiện tại, tất cả không phận Nhật Bản và các khu vực lân cận đều lắp trạm radar giám sát có khả năng quét độ cao / độ sâu trung bình 400 km. Tổng cộng có 28 trạm radar thường trực bố trí rải rác trên khắp lãnh thổ quốc gia Đông Bắc Á.
Loại radar cố định phổ biến nhất triển khai ở Nhật Bản là J / FPS-2 / 2A. Đây là loại radar giám sát tầm xa được đưa vào hoạt động năm 1982 và được xem là hệ thống phòng không tiên tiến nhất của nước này trong Chiến tranh Lạnh.
Vào tháng 3/1992, tại Mũi Kyogamisaki, Kyoto, Nhật Bản triển khai trạm radar ba tọa độ đầu tiên AFAR J / FPS-3. Được biết, trạm radar này phát hiện các mục tiêu trên không bay ở độ cao hơn 450 km.
Trạm nằm cách mực nước biển 451 m, có thể nhìn thấy các mục tiêu tầm thấp ở khoảng cách 70 km. Sau khi thực hiện một số cải tiến về thiết kế, tập đoàn Mitsubishi Electric đã xây dựng thêm thêm 6 trạm vào năm 1999.
Ngoài ra, Nhật Bản sử dụng thêm radar J / FPS-4 được thiết kế để đánh lạc hướng tên lửa chống radar, sử dụng các công nghệ kỹ thuật, linh kiện do Toshiba sản xuất với chi phí rẻ hơn nhiều so với J / FPS-3.
Trạm đầu tiên, bắt đầu hoạt động thử nghiệm vào năm 2002 nằm trên núi Takao, thuộc tỉnh Shimane. Trong giai đoạn từ 2006 đến 2008, Nhật Bản mua thêm 5 radar tương tự tại các phân khu khác và xây thêm 3 trạm phiên bản cải tiến J / FPS-4A.
Lực lượng Phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF) hạn chế các radar di động để chi phí vận hành và ít phụ thuộc vào thời tiết hơn. Tuy nhiên, do tọa độ của tất cả các trạm radar cố định dễ dàng bị xác định bằng vệ tinh, vậy nên rủi ro bị phá hủy bởi các cuộc không kích rất cao.
Vào đầu những năm 1980, Bộ Quốc Phòng Nhật Bản đã phát triển một radar di động ba tọa độ J / TPS-102 đặt trên khung gầm Type73.
Radar J / TPS-102 hoạt động trong dải tần 1,5-2 GHz. Phạm vi phát hiện của tiêm kích bay ở tầm xa 370 km. Phạm vi phát hiện tối đa đối với các mục tiêu ở độ cao khoảng 500 km.
Hiện Nhật Bản sở hữu 7 radar J / TPS-102, trở thành lực lượng dự bị cơ động trong các tình huống khủng hoảng, đề phòng các trạm ra đa đứng yên bị hỏng.
Máy bay AWACS
Hiện tại, lực lượng JASDF tiếp tục vận hành tích cực máy bay E-2C Hawkeye AWACS, được mua từ những năm 1980. Tất cả các máy bay E-2C của Nhật Bản đều được tân trang và hiện đại hóa để kéo dài thời gian phục vụ.
Năm 2014, Bộ tư lệnh Lực lượng Phòng không mong muốn thay thế các máy bay E-2C Hawkeye AWACS đã cũ bằng máy bay E-2D Advanced Hawkeye AWACS. Chiếc E-2D đầu tiên được chuyển giao cho Nhật Bản vào tháng 3/2019.
Tổng cộng, Nhật Bản đã đặt mua 9 chiếc E-2D Advanced Hawkeyes trị giá 3,14 tỷ USD. Có thông tin cho rằng các máy bay AWACS này sẽ tương tác với các máy bay chiến đấu F-35A mới nhận được gần đây.
Cho đến nay, máy bay E-2D là cải tiến tiên tiến nhất trong dòng máy bay Hawkeye AWACS. Ngoài thiết bị liên lạc, dẫn đường và hiển thị và xử lý dữ liệu mới, cải tiến đáng chú ý nhất là việc lắp đặt radar AN / APY-9.
Đầu năm 1991, chính phủ Nhật Bản công bố ý định mua máy bay AWACS E-3 Sentry hạng nặng. Nhưng do vào thời điểm đó, việc sản xuất máy bay cơ sở Boeing 707 đã bị ngừng sản xuất, nên hãng này quyết định chỉ chế tạo bộ radar bay cho Nhật Bản trên cơ sở máy bay chở khách thế hệ mới Boeing 767-200ER.
Được chế tạo theo đơn đặt hàng của Tokyo, máy bay E-767 AWACS phù hợp hơn với thực tế hiện đại và có tiềm năng hiện đại hóa đáng kể. Đồng thời, E-767 AWACS bay nhanh hơn và hiện đại hơn với cabin lớn gấp đôi, có thể bố trí phi hành đoàn gồm 10 người và trang thiết bị.
So với E-3 Sentry, máy bay E-767 AWACS có nhiều không gian trống hơn, có khả năng cho phép cài đặt thêm phần cứng.
Hiện tại, 4 máy bay E-767 AWACS đang phục vụ phi đội tuần tra radar số 602 của Quân đoàn Kiểm soát Không lưu và Cảnh báo Radar, có trụ sở chính tại căn cứ không quân Hamamatsu.
Máy bay E-767 AWACS được sửa chữa và hiện đại hóa tại cơ sở Kawasaki Heavy Industries ở Gifu theo định kỳ khoảng 5-6 năm một lần. Trong đó, tập đoàn Toshiba chịu trách nhiệm cập nhật các thành phần điện tử.
Việc cải tiến hệ thống điện tử, bảo dưỡng khung máy bay và các hệ thống khác của máy bay E-767 AWACS trong tình trạng kỹ thuật tốt cho phép đạt được mức độ sẵn sàng chiến đấu cao và nâng cao tuổi thọ của sản phẩm thêm 15 năm.