Khối lượng ô tô nhập khẩu thời gian tới chắc chắn sẽ tăng đáng kể do nhu cầu cao trong nước. (Nguồn: Vietvisiontravel) |
Cận những ngày Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) chính thức được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn, không ít người tỏ rõ sự lo ngại đối với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Tuy nhiên, trái với những nhận định u ám, The Diplomat bất ngờ cho rằng, triển vọng tăng trưởng của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam tiếp tục khả quan bất chấp đại dịch Covid-19, kể cả sự cạnh tranh mạnh mẽ trong EVFTA thời gian tới.
Đối mặt với cạnh tranh
Trong 30 năm qua, Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương. Việt Nam đã bắt đầu loại bỏ thuế nhập khẩu đối với ô tô từ các nước ASEAN kể từ năm 2018 như một phần trong các cam kết của Khu vực thương mại tự do ASEAN. Nếu EVFTA được Quốc hội thông qua, thuế suất thuế nhập khẩu đối với ô tô từ EU vào Việt Nam (CBU) sẽ ở mức 55-75%, cạnh tranh mạnh với ô tô trong nước.
Trong khi đó, theo The Diplomat, dự báo sản lượng xe ô tô thương mại toàn cầu sẽ giảm 22% so với năm 2019, xuống còn 2,6 triệu chiếc vào năm 2020. Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến ngành công nghiệp ô tô toàn cầu khi đến nay nhiều nhà máy sản xuất ô tô vẫn phải đóng cửa. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Theo báo cáo của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), ngành công nghiệp ô tô chỉ sản xuất 11.761 chiếc - bao gồm 7.796 xe khách, 3.652 xe thương mại và 313 xe chuyên dùng - vào tháng 4/2020. Báo cáo cũng cho biết, doanh số bán xe khách giảm 40%, xe thương mại giảm 26% và xe chuyên dụng giảm 16%, so với tháng trước. Toàn bộ thị trường ô tô trong 4 tháng đầu năm 2020 giảm 36%. Lý do chính cho sự sụt giảm doanh số là tác động của đại dịch Covid-19 do các biện pháp giãn cách xã hội để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh.
Theo ước tính, 70% nguồn cung ô tô của Việt Nam được lắp ráp trong nước, trong khi xe nhập khẩu chiếm 30% còn lại.
Tại Việt Nam, có 3 hình thức sản xuất ô tô chính là CKD (Complete Knocked-Down) - các nhà máy tại Việt Nam nhập khẩu 100% linh kiện để lắp ráp xe; thứ hai là SKD (Semi-Knocked-Down) - các nhà máy lắp ráp xe với một số thành phần nội địa hóa; và thứ ba là CBU (Built-Up) tức là xe được sản xuất 100% ở nước ngoài và nhập khẩu vào Việt Nam.
Thương nhân ngành công nghiệp ô tô Việt Nam phải trả thuế và lệ phí cao cũng như đối mặt với những lo ngại về ùn tắc giao thông đô thị. Các doanh nghiệp ngành ô tô trong nước vẫn chưa mạnh vì nhiều lý do như: Chưa có sự hợp tác, liên kết chuyên môn giữa lắp ráp và sản xuất ô tô, với sản xuất phụ tùng và linh kiện; Các sản phẩm chưa được áp dụng công nghệ mới nhất. Cho đến nay, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chủ yếu phụ thuộc vào phụ tùng nhập khẩu. Tại Việt Nam, hầu hết giá trị của phụ tùng và linh kiện của ngành ô tô là từ các doanh nghiệp FDI. Và một vấn đề lớn của ngành là khả năng đổi mới công nghệ yếu.
Chính phủ hiện đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp ô tô, đặc biệt thông qua công cụ tài chính như Thuế tiêu thụ đặc biệt.
Hiện tại, giá mua xe ô tô ở Việt Nam đắt hơn các nước trong khu vực ASEAN khác, như Thái Lan hay Indonesia, do mức thuế và chi phí sản xuất trong nước cao. Ở góc độ khác, các nước trong ASEAN có tỷ lệ nội địa hóa cao hơn Việt Nam, từ đó giá cả chắc chắn sẽ cạnh tranh hơn.
Bộ Công Thương cũng từng thừa nhận, các doanh nghiệp trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các sản phẩm nhập khẩu, đặc biệt khi Việt Nam ký Hiệp định EVFTA và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trong đó có nhiều quốc gia sản xuất ô tô chất lượng cao.
Công nghiệp ô tô Việt Nam sẽ phục hồi
Tuy nhiên, trong bài phân tích, tờ The Diplomat vẫn tin rằng, dù cạnh tranh trong EVFTA sẽ rất lớn và kể cả bất chấp tác động của Covid-19 đối với nền kinh tế, ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam sẽ phục hồi.
Trong những năm tới, khối lượng ô tô nhập khẩu chắc chắn sẽ tăng đáng kể do nhu cầu trong nước cao, điều đó có thể khiến các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước phải chịu áp lực cạnh tranh lớn hơn.
Thị trường xe hơi hạng sang của Việt Nam dự kiến sẽ phát triển mạnh mẽ trong năm nay bất chấp tác động của đại dịch Covid-19. (Nguồn: Vietnammotorshow) |
Bộ Tài chính mới đây đề xuất một loại thuế tiêu thụ đặc biệt mới sẽ áp dụng cho ô tô dưới 9 chỗ ngồi được sản xuất và lắp ráp trong nước, cũng như đề nghị giảm thuế cho việc nội địa hóa các bộ phận và linh kiện sản xuất. Không rõ quy định mới sẽ được áp dụng khi nào, nhưng những đề xuất này được đánh giá không chỉ giúp ngành lắp ráp trong nước cạnh tranh với xe nhập khẩu, mà còn mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế, mặc dù tiền thu thuế giảm.
Đáng chú ý, ngày 20/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã phê duyệt kế hoạch giảm 50% phí trước bạ khi đăng ký ô tô cho đến cuối năm. Động thái này là nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phục hồi và kích thích tiêu thụ xe hơi sản xuất và lắp ráp trong nước, thay vì nhập khẩu.
Bên cạnh đó, tầng lớp trung lưu của Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng và điều này giúp thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng. Theo báo cáo của PwC, số người Việt trung lưu sẽ đạt 44 triệu vào năm 2020 và 95 triệu vào năm 2030, sự phát triển đó sẽ thay đổi lối sống trong xã hội Việt Nam và tăng chi tiêu của người tiêu dùng, đặc biệt là các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Mức sống của người Việt Nam đang gia tăng, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ô tô nước ngoài đầu tư.
Thị trường xe hơi hạng sang của Việt Nam cũng dự kiến sẽ phát triển mạnh mẽ trong năm nay bất chấp tác động của đại dịch Covid-19. Sở thích của người tiêu dùng trong việc lựa chọn những chiếc xe sang trọng vẫn là xu hướng. Vinfast là thương hiệu ô tô của tập đoàn Vingroup của Việt Nam và đang muốn trở thành nhà sản xuất ô tô và xe máy hàng đầu tại Đông Nam Á. Tập đoàn ô tô Trường Hải Thaco là nhà sản xuất ô tô hàng đầu tại Việt Nam và đang chiếm 32% thị trường ô tô của quốc gia Đông Nam Á này.
Thêm một số dấu hiệu tích cực nữa cho ngành sản xuất ô tô Việt Nam là dù nền kinh tế cũng chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 5% vào năm 2020 và năm tới. Điều này cho thấy bức tranh triển vọng nền kinh tế vẫn khá lạc quan.