📞

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trình bày Báo cáo tổng kết công tác của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021

Trung Hiếu 17:25 | 24/03/2021
TGVN. Trong phiên khai mạc Kỳ họp thứ 11 Quốc hội Khóa XIV, sáng 24/3, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.

Xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ Nhân dân.

Báo cáo tổng kết công tác của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, nhiệm kỳ 2016 - 2021 diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp và khó đoán định. Toàn cầu hóa, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại nhiều cơ hội; nhưng nhiều nhân tố bất ổn, rủi ro gia tăng như: cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc và các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là sự bùng phát của đại dịch Covid-19 chưa từng có trong lịch sử từ đầu năm 2020 đã tác động mạnh mẽ tới cục diện kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới, khu vực và sự phát triển của các quốc gia. Trong nước, kế thừa thành tựu 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh nhưng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài, những hạn chế, bất cập nội tại của nền kinh tế và biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, nhất là xâm nhập mặn, hạn hán, ngập lụt, bão lũ, sạt lở đất chưa từng có … và đại dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực, ảnh hưởng lớn đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tuy còn những tồn tại, hạn chế nhưng công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cấp, các ngành đã có nhiều đổi mới, quyết liệt, sâu sát, linh hoạt và sáng tạo, đóng góp vào những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện với nhiều dấu ấn nổi bật về phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) của đất nước trong 5 năm 2016-2020, tô đậm thêm những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới.

Tại các kỳ họp Quốc hội, Chính phủ đã báo cáo kết quả phát triển KTXH hàng năm và công tác quản lý, điều hành đối với từng lĩnh vực theo các Nghị quyết của Quốc hội. Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KTXH năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến kế hoạch năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021-2025.

Thực hiện Kế hoạch số 581/KH-UBTVQH14 ngày 11 tháng 8 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tổng kết công tác nhiệm kỳ 2016-2021, các bộ, cơ quan ngang bộ đã triển khai tổng kết theo chức năng, nhiệm vụ được phân công. Báo cáo này tập trung đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và các quy định pháp luật liên quan với các nội dung chính sau đây:

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt phương châm xuyên suốt của cả nhiệm kỳ là Xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ Nhân dân, kế thừa kinh nghiệm quản lý, điều hành từ các nhiệm kỳ trước, không ngừng đổi mới, cải cách mạnh mẽ, kiên định định hướng mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trên dưới một lòng, quyết tâm thực hiện các thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra trong các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội và Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2011-2020; khẩn trương ban hành và tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2016 - 2020; Chương trình hành động nhiệm kỳ; hằng năm đề ra phương châm hành động, quan điểm điều hành và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn để chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương cùng quán triệt, nỗ lực, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển KTXH đã đề ra. Trong đó quan điểm điều hành trọng tâm là: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi. Tập trung tháo gỡ điểm nghẽn, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật đồng bộ, thống nhất, khơi thông các nguồn lực, thúc đẩy các động lực cho phát triển. Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, công trình trọng điểm. Quan tâm phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Quyết liệt phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện tử, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. Đẩy mạnh công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín và vị thế của đất nước trên trường quốc tế.

Năm 2020, trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung quán triệt thực hiện quan điểm điều hành trong tình hình mới với tinh thần “khó khăn gấp hai thì nỗ lực gấp ba”, quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép”: vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển KTXH; trong đó, kiểm soát dịch bệnh là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm ổn định, an toàn xã hội; đồng thời quyết liệt thực hiện các giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch Covid-19 đối với nền kinh tế, duy trì và phục hồi sản xuất, kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời báo cáo Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội để triển khai thực hiện nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Đồng thời, chú trọng chỉ đạo thực hiện phù hợp các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, triển khai linh hoạt, hiệu quả các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh Việt Nam an toàn, nhân văn trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên toàn cầu.

Xếp hạng về môi trường kinh doanh toàn cầu giai đoạn 2016-2020 của Việt Nam tăng 20 bậc, xếp thứ 70/190 quốc gia và xếp thứ 5 trong ASEAN.

Về những kết quả đạt được, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, đối với việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và Quy chế làm việc của Chính phủ, ngay sau khi được kiện toàn và phê chuẩn, với sự đoàn kết, thống nhất, trách nhiệm trước Nhân dân và đất nước, Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 đã tích cực đổi mới, cải cách mạnh mẽ và quyết liệt hành động theo tinh thần kiến tạo phát triển, phục vụ người dân, doanh nghiệp; luôn chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, thể hiện đúng vị trí, chức năng của cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; đồng thời, thể hiện rõ mối liên hệ và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong hệ thống chính trị. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương hoạt động thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều thành quả quan trọng, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; góp phần thúc đẩy phát triển KTXH, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn xác định công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật là khâu đột phá, nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu. Trong nhiệm kỳ 2016 - 2021, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục tập trung chỉ đạo triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đổi mới tư duy xây dựng chính sách, pháp luật từ quản lý chặt chẽ sang tạo hành lang, khuyến khích phát triển. Với quyết tâm kiên quyết gỡ bỏ những quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ ràng, gây khó khăn, cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh và để đáp ứng yêu cầu hội nhập, Chính phủ đã tập trung rà soát, xác định các “điểm nghẽn” về thể chế trên các lĩnh vực KTXH, tập trung tháo gỡ những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập hoặc không phù hợp thực tiễn, kìm hãm sự phát triển, khơi thông các nguồn lực, tạo thuận lợi thúc đẩy hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh và phát triển các ngành, lĩnh vực.

Với phương châm “lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm phục vụ”, Chính phủ coi việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong cả nhiệm kỳ. Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững, thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ trong việc loại bỏ các rào cản, quy định điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý, mở rộng khả năng tham gia thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.

Toàn cảnh kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIV.

Giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã ban hành 50 văn bản quy phạm pháp luật cắt giảm 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh (đạt gần 63%); Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành theo thẩm quyền 21 văn bản quy phạm pháp luật để cắt giảm, đơn giản hóa 30/120 thủ tục kiểm tra chuyên ngành, cắt giảm 6.776/9.926 (đạt 68%) danh mục dòng hàng kiểm tra chuyên ngành. Chính phủ đã chỉ đạo phương án xử lý theo hướng tập trung một đầu mối thực hiện kiểm tra chuyên ngành đối với 1.501 mặt hàng chồng chéo về thẩm quyền giữa các bộ để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giảm thời gian thông quan hàng hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra hàng hóa chuyên ngành.

Theo xếp hạng về môi trường kinh doanh toàn cầu giai đoạn 2016-2020 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam tăng 20 bậc, xếp thứ 70/190 quốc gia và xếp thứ 5 trong ASEAN; về năng lực cạnh tranh toàn cầu, theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới, giai đoạn 2018-2020, Việt Nam tăng 10 bậc, từ 77 lên 67/141 quốc gia. Kết quả này được đánh giá có mức độ cải thiện về chất lượng cao hơn so với mức trung bình của thế giới, là một trong những minh chứng cho nỗ lực bền bỉ trong cải cách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành trong suốt thời gian qua.

Đổi mới mạnh mẽ phương thức làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước gắn với xây dựng Chính phủ điện tử.

Với quyết tâm đổi mới mạnh mẽ phương thức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử (CPĐT) giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025. Thủ tướng Chính phủ quán triệt quan điểm chỉ đạo về xây dựng CPĐT: “Nghĩ lớn, nhìn tổng thể, hành động nhanh, bắt đầu từ những việc nhỏ nhưng hiệu quả lớn”; thành lập cơ quan chỉ đạo liên ngành ở Trung ương là Ủy ban Quốc gia về CPĐT do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng ban và tại các bộ, ngành, địa phương là các Ban Chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền điện tử. Tập trung hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ phục vụ xây dựng CPĐT. Đặc biệt, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và đưa vào vận hành các hệ thống thông tin nền tảng của CPĐT, giúp đổi mới lề lối làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp.

Các cơ quan quản lý nhà nước đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 và đến cuối năm 2020 đạt tỷ lệ trên 30%, vượt mục tiêu Chính phủ đề ra; một số bộ, cơ quan xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng. Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện một số cơ sở dữ liệu chuyên ngành mang tính chất nền tảng như: cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (khai trương ngày 25/02/2021); cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai… Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu của các cơ quan nhà nước ngày càng được đẩy mạnh. Các bộ, ngành, địa phương đã có nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đạt 100%. Theo đánh giá của Liên Hợp quốc, Chỉ số phát triển CPĐT của Việt Nam tăng 3 bậc so với năm 2016, xếp thứ 86/193 quốc gia, xếp thứ 6 trong ASEAN.

Với mục tiêu nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa cải cách TTHC với xây dựng CPĐT, Chính phủ đã ban hành cơ sở pháp lý và 19 Nghị quyết thông qua phương án đơn giản hóa trên 1.000 TTHC, giấy tờ công dân, tạo tiền đề quan trọng để khi Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư vào vận hành có thể cắt giảm tối đa việc khai nộp giấy tờ, thông tin của người dân trong quá trình thực hiện TTHC, bảo đảm triển khai một cách đồng bộ, thống nhất việc cải cách TTHC, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp thông qua Cổng Dịch vụ công quốc gia. Đã có 100% các bộ, ngành, địa phương hoàn thành việc kiện toàn Bộ phận một cửa các cấp để giải quyết TTHC, trong đó 59/63 địa phương thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh. Đặc biệt có địa phương đã thực hiện việc giải quyết TTHC theo phương thức “5 tại chỗ”. Nhiều địa phương đã gắn kết chặt chẽ giữa việc thiết lập một cửa “vật lý” với một cửa “điện tử” để tạo thuận lợi cho người dân, chất lượng giải quyết hồ sơ có sự cải thiện rõ rệt, tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt 97,37%. Tiếp tục triển khai Cơ chế một cửa quốc gia để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; đến nay, 13 bộ, ngành đã kết nối thông qua Cơ chế một cửa quốc gia với 207 TTHC; đã triển khai trao đổi thông tin Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu D với 09 nước ASEAN thông qua Cơ chế một cửa ASEAN. Chính phủ tiếp tục chỉ đạo đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng nâng cao chất lượng phục vụ, không theo địa giới hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, giảm thời gian đi lại, chi phí xã hội và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Công tác bảo đảm an toàn an ninh mạng được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo và có nhiều cải thiện. Chính phủ đã xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo đảm an toàn thông tin mạng; đã trình Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng năm 2018 và ban hành 05 nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật An toàn thông tin mạng năm 2015; Thủ tướng Chính phủ ban hành 12 quyết định và chỉ thị về an toàn thông tin mạng, thành lập Ban Chỉ đạo an toàn, an ninh mạng quốc gia. Các bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ công tác bảo đảm an toàn thông tin theo mô hình “4 lớp”. Thúc đẩy xây dựng hệ sinh thái sản phẩm an toàn, an ninh mạng Việt Nam đạt 91% số dòng sản phẩm. Chỉ số an toàn, an ninh mạng của Việt Nam năm 2019 tăng 50 bậc so với năm 2017, đứng thứ 50/194 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%, thuộc nhóm 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng cho biết, nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ đã kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo theo dõi sát tình hình, nhận diện đúng thời cơ, thách thức, xây dựng kịch bản tăng trưởng kinh tế theo quý, năm với phương án, giải pháp kịp thời, phù hợp tình hình thực tế. Phối hợp, điều hành các chính sách vĩ mô theo hướng đồng bộ, chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Theo dõi chặt chẽ và có giải pháp điều hành phù hợp giá một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, góp phần ổn định thị trường, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc hội đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 3,2%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 (7,65%). Lạm phát cơ bản được kiểm soát tốt qua các năm, giữ mức tương đối ổn định, bình quân đạt 1,81%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 (5,15%).

Đặc biệt năm 2020, trước tác động của dịch Covid-19, Chính phủ đã nhanh chóng xây dựng phương án, kịch bản phục hồi kinh tế trong điều kiện “bình thường mới”, không để bị động, bất ngờ; tập trung tháo gỡ các “nút thắt” trọng tâm cho tăng trưởng; đồng thời chỉ đạo xây dựng kịch bản tăng trưởng của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương với hệ thống chỉ tiêu, giải pháp cụ thể. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kịp thời chỉ đạo thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Chỉ đạo xây dựng Đề án khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước, trình Bộ Chính trị; triển khai kịp thời Kết luận số 77-KL/TW ngày 05/6/2020 của Bộ Chính trị về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch Covid-19; báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua các nghị quyết phê duyệt các cơ chế, chính sách đặc thù và các giải pháp vượt trội, vừa cấp bách, vừa căn cơ, phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu thực tiễn; trên cơ sở đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan, doanh nghiệp ban hành theo thẩm quyền các nghị định, quyết định, các giải pháp cụ thể để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và tận dụng tốt thời cơ phục hồi, phát triển KTXH như: giãn, hoãn tiền nộp thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất; cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, miễn giảm phí thanh toán, cho vay mới; tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội; giảm giá điện, tiền điện, giá cước viễn thông... Mặc dù năm 2020 nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 đạt 2,91%, tăng trưởng cao nhất so với 5 nền kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam Á là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 6,8%, thuộc nhóm 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới; bình quân 5 năm 2016-2020 ước đạt khoảng 5,99%, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (5,91%) và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.

Nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ cũng đã điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ phù hợp với diễn biến tình hình. Hoàn thiện chính sách tài chính, cơ cấu lại ngân sách nhà nước và quản lý nợ công theo hướng tiếp cận thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình thực tiễn, bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu gắn với tập trung phát triển mạnh mẽ, vững chắc thị trường nội địa. Tập trung thực hiện hiệu quả các đột phá chiến lược, trong đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được hoàn thiện theo hướng đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển, hình thành và vận hành đồng bộ các loại thị trường, bước đầu có sự gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công gắn với đẩy nhanh tiến độ các dự án, công trình quan trọng quốc gia. Triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu, bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống. Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, thu hút các nguồn lực cho phát triển. Phát triển công nghiệp trở thành trụ cột của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu rộng và hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả cao và thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống; khẳng định vai trò là trụ đỡ trong nền kinh tế trong điều kiện khó khăn, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19. Tăng cường cơ chế điều phối, liên kết, phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển, đô thị và xây dựng nông thôn mới. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, tạo sự quản lý thống nhất, phát triển đồng bộ, khắc phục tình trạng quản lý chia cắt, cục bộ ngành và địa phương; là động lực tăng cường liên kết vùng, phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương, nâng cao hiệu quả trong khai thác và sử dụng các nguồn lực phát triển KTXH bền vững. Chính phủ cũng tập trung nghiên cứu, rà soát phân vùng phù hợp, nâng cao chất lượng quy hoạch vùng theo hướng tích hợp, đa ngành, khai thác, phát huy tốt nhất các lợi thế của mỗi vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới. Chú trọng phát triển kinh tế biển, trong đó ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương triển khai. Kiện toàn Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, thể hiện bước tiến quan trọng trong phương thức chỉ đạo, điều hành, tập trung, thống nhất trong quá trình thực hiện Chiến lược.

Chính phủ chú trọng phát triển hệ thống đô thị gắn liền với xây dựng, đồng bộ hệ thống hạ tầng đô thị phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ và từng bước đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển KTXH. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống người nông dân. Khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, hỗ trợ, tạo thuận lợi phát huy sức sáng tạo và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập.

Chính phủ cũng chú trọng thúc đẩy hợp tác và thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài.Giai đoạn 2016-2020, thu hút FDI tăng mạnh, tổng vốn FDI đăng ký khoảng 173-174 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện khoảng 92 - 93 tỷ USD.

Quan tâm phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Báo cáo của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 cũng cho thấy, bên cạnh phát triển kinh tế, nhiệm kỳ này Chính phủ cũng tập trung phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa dân tộc và con người Việt Nam và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, góp phần lan tỏa những giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta trên mọi miền Tổ quốc và trên khắp thế giới luôn hướng về quê hương, đất nước.

Với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Giáo dục đại học năm 2018, Luật Giáo dục năm 2019; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung cụ thể hóa, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phát triển giáo dục; tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; xây dựng và ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 51 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29 Trung ương 8 (khóa XI). Ban hành Khung cơ cấu Hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Phê duyệt và triển khai Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2018 - 2025; tập trung đảm bảo cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non, phổ thông; đến tháng 7/2017, có 63/63 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; ban hành chính sách phát triển giáo dục mầm non. Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông tổng thể và các chương trình môn học; rà soát, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025....

Triển khai đồng bộ, hiệu quả Luật Giáo dục nghề nghiệp. Chính phủ đã điều chỉnh phân công cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp; phê duyệt Đề án giáo dục hướng nghiệp, phân luồng trong giáo dục phổ thông; triển khai tích cực Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và các chương trình, đề án về phát triển giáo dục nghề nghiệp. Kết quả, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 51,6% năm 2015 lên 64,5% năm 2020; trong đó, tỉ lệ lao động có bằng, chứng chỉ tăng từ 20,29% năm 2015 lên 24,5% năm 2020.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ tiếp tục thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chính phủ đã triển khai xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, chuẩn bị các điều kiện phát triển Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia, khuyến khích xã hội hóa đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội... Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam liên tục tăng qua các năm, sau 5 năm tăng 10 bậc, từ vị trí 52 lên 42/131 quốc gia, lãnh thổ, đứng đầu nhóm các nước có cùng mức thu nhập. Năm 2020, đã triển khai kịp thời theo quy trình đặc biệt các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, đẩy mạnh hợp tác công tư trong nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, chế tạo bộ KIT phát hiện virus Sars-CoV2, được WHO ghi nhận, đạt tiêu chuẩn EC, phát triển vaccine Covid-19... phục vụ kịp thời, thiết thực, hiệu quả cho công tác phòng, chống dịch Covid-19.

Nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ quan tâm chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân. Công tác y tế dự phòng được chú trọng, tăng cường giám sát, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời không để dịch bệnh nguy hiểm lây lan trong cộng đồng trên diện rộng; triển khai đồng bộ hệ thống quản lý tiêm chủng tới tất cả các điểm tiêm chủng. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh phục vụ nhân dân, thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm quá tải các bệnh viện; thực hiện liên thông kết quả xét nghiệm, giúp giảm phiền hà, tiết kiệm chi phí cho người bệnh. Ứng dụng công nghệ thông tin trong kết nối liên thông giữa các cơ sở khám, chữa bệnh với cơ quan bảo hiểm xã hội, giám định thanh toán bảo hiểm y tế; đổi mới phương thức chi trả bảo hiểm y tế. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 76,5% năm 2015 lên khoảng 90,85% năm 2020, vượt mục tiêu Quốc hội giao (80%). Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm, đặc biệt là đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, đề cao trách nhiệm của người trực tiếp sản xuất kinh doanh thực phẩm; đổi mới cơ chế, đơn giản hóa TTHC trong công tác quản lý an toàn thực phẩm, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và thông lệ quốc tế. Với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị và sự nỗ lực, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đặc biệt là sự cống hiến, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, hy sinh quên mình của đội ngũ y bác sỹ, lực lượng quân đội, công an ngày đêm trên tuyến đầu phòng, chống dịch, nước ta đã cơ bản ngăn chặn và kiểm soát được dịch Covid-19, điều trị có hiệu quả các ca bệnh nặng, hiểm nghèo, được các tổ chức quốc tế và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao.

Nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ tổ chức thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là đối với người có công với cách mạng; kịp thời hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do dịch Covid-19, thiên tai, bão, lũ. Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi); ban hành Nghị định điều chỉnh mức trợ cấp ưu đãi người có công hàng năm, tổ chức thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ đối với người có công với cách mạng; tổ chức chu đáo tặng quà Tết của Chủ tịch nước nhân dịp Tết Nguyên đán, ngày kỷ niệm Thương binh - Liệt sỹ 27/7 hằng năm.

Triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ lệ hộ nghèo giảm liên tục qua các năm, đến hết năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước ước giảm còn khoảng 2,75%; sau 5 năm, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm khoảng 1,4%/năm, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao.

Quan tâm thực hiện tốt các chương trình, chính sách dân tộc, xây dựng và trình Quốc hội thông qua Đề án tổng thể phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.

Chính phủ cũng tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; giải quyết hợp lý các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, phản ánh trung thực dòng chảy chính của xã hội, lan tỏa năng lượng tích cực, khơi dậy tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, tạo niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội. Triển khai tích cực Luật Báo chí; phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và tiến hành sắp xếp các cơ quan báo chí theo quy hoạch; ban hành và triển khai Chiến lược phát triển thông tin quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn 2030 và các chính sách về phát triển báo chí, tạo cơ sở cho việc đổi mới mô hình tổ chức, hình thành hệ thống báo chí tinh gọn, hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Ban hành và triển khai Kế hoạch thi hành Luật Tiếp cận thông tin, thống nhất thực hiện việc cung cấp thông tin chính thống, công khai, minh bạch của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và người có trách nhiệm trong quản lý nhà nước đáp ứng quy định về quyền được thông tin của người dân.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng nhấn mạnh, nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ đã tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai. Quyết liệt thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chú trọng giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chủ động, tích cực, sáng tạo, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng cao. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội, góp phần ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất nước. Kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước…

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, trong nhiệm kỳ qua, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác chỉ đạo, điều hành, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục. Đó là:

- Tình trạng xin điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn chưa được khắc phục triệt để, nhất là việc xin bổ sung dự án luật, nghị quyết còn nhiều; trong khi đó nhiều dự án có trong chương trình nhưng chưa được chuẩn bị kịp, phải xin lùi thời gian trình hoặc rút dự án ra khỏi Chương trình. Việc chuẩn bị một số hồ sơ dự án, dự thảo văn bản pháp luật trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức thi hành pháp luật còn chậm; chưa được khắc phục triệt để việc chậm ban hành, nợ đọng văn bản quy định chi tiết.

- Việc thực hiện các trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế trên một số lĩnh vực chưa đạt như kỳ vọng. Phát triển nông nghiệp vẫn còn những yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc, việc đổi mới các mô hình tổ chức sản xuất còn chậm; việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp tại một số địa phương hiệu quả chưa cao.

- Phát triển kinh tế vùng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, tác động lan tỏa và liên kết của các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng lân cận còn thấp, các liên kết nội vùng còn bất cập. Tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm quốc gia còn chậm; hạ tầng giao thông, nhất là ở vùng miền núi phía Bắc, Đồng bằng Sông Cửu Long chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển KTXH

- Chất lượng công tác lập, phê duyệt quy hoạch đô thị còn hạn chế. Thị trường bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro. Cơ cấu hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở tại các thành phố lớn, nhà ở xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Kỷ luật, kỷ cương quản lý tài nguyên, đất đai, công sản, đầu tư xây dựng cơ bản còn bị buông lỏng ở một số nơi.

- Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các đô thị, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề còn chậm được xử lý; chất lượng không khí tại các đô thị giảm. Tình trạng xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển diễn ra nghiêm trọng ở một số địa phương chưa được khắc phục kịp thời. Tình hình khai thác cát, sỏi trái phép tại một số nơi ngăn chặn chưa hiệu quả.

- Bộ máy hành chính nhà nước chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả chưa cao; việc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy cơ quan chuyên môn ở một số địa phương thực hiện thí điểm còn chưa đồng bộ, thống nhất.

- Việc đổi mới lề lối làm việc, kỷ cương, kỷ luật hành chính của một số cơ quan, đơn vị chưa đạt yêu cầu. Công tác quản lý, điều hành một số lĩnh vực chưa hiệu quả, phản ứng chính sách có mặt còn chậm.

- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, nhất là năng lực phát hiện vấn đề, tham mưu và đề xuất các biện pháp giải quyết còn hạn chế. Công tác đề bạt, bổ nhiệm, quản lý, sử dụng, luân chuyển cán bộ, công chức ở một số bộ, ngành địa phương chưa đúng quy định, chưa bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn.

- Một số bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc lịch tiếp công dân định kỳ, chưa gắn việc tiếp công dân với đối thoại giải quyết khiếu nại, tố cáo.

15 nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.

Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2016-2021 của Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, tình hình thế giới, khu vực và trong nước dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, Chính phủ xác định phương châm hành động năm 2021 là “Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển”; tiếp tục kế thừa những kinh nghiệm, thành quả đã đạt được trong những năm qua, không chủ quan, thỏa mãn với kết quả, thành tích đã đạt được, khẩn trương khắc phục hiệu quả những mặt còn hạn chế, bất cập; đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, vượt qua mọi khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận dụng tốt các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số trong khu vực và thế giới; phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết, chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao và niềm tin, khát vọng vươn lên mạnh mẽ, kiên quyết không lùi bước trước khó khăn, thách thức để đưa đất nước phát triển hơn nữa, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch năm 2021, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện Kế hoạch 5 năm, Chiến lược 10 năm tới và sớm hiện thực hóa khát vọng phát triển về tầm nhìn 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo tinh thần Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, góp phần kỷ niệm 100 năm thành lập nước; trong đó tập trung vào một số phương hướng, nhiệm vụ sau:

1. Chủ động xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 phù hợp với thực tế, có tính khả thi cao, với những nhiệm vụ, giải pháp toàn diện, có tính đột phá để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2021-2025, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025.

2. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ nhiệm kỳ 2016 - 2021, xây dựng và ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 đáp ứng mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân ngày càng thực chất, hiệu lực, hiệu quả hơn nữa.

3. Tập trung rà soát, khắc phục những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật, nhất là về đầu tư, kinh doanh, đất đai, hạ tầng; hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, minh bạch và ổn định gắn với nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, bảo đảm kỷ cương xã hội; tập trung nguồn lực, tổ chức thực hiện nghiêm chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, khắc phục triệt để tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết.

4. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan hành chính nhà nước các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

5. Tập trung rà soát, cải cách TTHC nội bộ, gắn với việc đẩy mạnh xây dựng nền hành chính phi giấy tờ và công chức điện tử. Thực hiện hiệu quả Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025.

6. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự phát triển và vận hành của nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế; kiên định mục tiêu ưu tiên bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và tạo thuận lợi thúc đẩy phát triển KTXH.

7. Tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, nhất là các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư, xây dựng các dự án, công trình kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia, nhất là về giao thông, năng lượng và hạ tầng số.

8. Xây dựng quy hoạch vùng theo hướng tích hợp, đa ngành, hình thành chuỗi giá trị và xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng và cơ chế điều phối đủ mạnh cho phát triển vùng. Phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.

9. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo dựa trên thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chủ động xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, thu hút các công nghệ mới, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.

10. Gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với xã hội, phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

11. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.

12. Triển khai đồng bộ, có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác tiếp công dân.

13. Gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, tạo môi trường hoà bình và ổn định cho phát triển đất nước.

14. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chấp hành sự giám sát của Quốc hội. Phối hợp chặt chẽ trong việc chuẩn bị nội dung, xây dựng và thực hiện chương trình các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

15. Chính phủ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các quy chế phối hợp có liên quan; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ phát triển KTXH 5 năm 2021- 2025.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, Chính phủ nhận thức rằng, những kết quả chủ yếu đạt được, những ưu điểm, hạn chế và bài học kinh nghiệm được đánh giá, rút ra cũng như một số kiến nghị về phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới không chỉ là tổng kết, kiểm điểm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong nhiệm kỳ, mà còn là cơ sở để Chính phủ nhiệm kỳ tới và các cơ quan trong hệ thống hành chính, chính quyền các cấp nghiên cứu, tham khảo trong công tác chỉ đạo, điều hành nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.