📞

Tìm chính sách phù hợp phát triển bền vững ngành giấy

14:27 | 17/10/2018
Dù có những bước phát triển mạnh mẽ và dự kiến sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD trong thời gian tới, ngành giấy Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều thách thức như thiếu nguồn cung, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường.

Đây là nhận định chung được đưa ra tại Hội thảo “Giải pháp chính sách phát triển bền vững ngành giấy tại Việt Nam” ngày 16/10, tại Hà Nội. Hội thảo do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam phối hợp tổ chức, thu hút sự tham gia của gần 100 doanh nghiệp, cơ quan chức năng và các chuyên gia cao cấp trong ngành.

Hội thảo đã thảo luận và làm rõ vai trò trọng yếu của ngành giấy đối với nền kinh tế, lợi ích và tiềm năng phát triển đường dài của phương thức sản xuất dùng giấy tái chế. Đồng thời, đề xuất các giải pháp về chính sách quản lý nguồn nguyên liệu giấy tái chế theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế bền vững.

Nhiều tiềm năng phát triển

Trong cuộc sống, giấy là sản phẩm thiết yếu và là ngành sản xuất đóng vai trò trọng yếu, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế. Ngành giấy Việt Nam cũng đang có bước phát triển mạnh mẽ với mức tăng trưởng bình quân 11% vào giai đoạn 2000 - 2007 và 16% vào giai đoạn từ 2007 - 2016. Dự kiến, nhu cầu giấy của Việt Nam thời gian tới sẽ có mức tăng trưởng từ 8 - 10%/năm.

Mặc dù có thể sản xuất, song hằng năm, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn giấy cho nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng và cho sản xuất. Riêng đối với giấy bao bì, nhu cầu sử dụng cho sản phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu có mức tăng trưởng rất lớn, việc tăng năng lực sản xuất đối với giấy bao bì còn nhiều tiềm năng để phát triển. Với nhu cầu lớn đáng kể và vai trò đa dạng đối với kinh tế, sản xuất của ngành giấy dự kiến đóng góp khoảng 1,5% giá trị GDP, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.

Hội thảo “Giải pháp chính sách phát triển bền vững ngành giấy tại Việt Nam” ngày 16/10, tại Hà Nội. (Ảnh: V.C)

Tuy nhiên, theo ông Phan Chí Dũng, nguyên Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ (Bộ Công Thương), một trong những bất cập hiện nay của ngành giấy là nguồn cung phế liệu trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu số lượng lớn nhằm phục vụ cho sản xuất trong nước. Theo ước tính sơ bộ, tỷ lệ thu gom giấy tại Việt Nam chỉ đạt dưới ngưỡng trung bình thế giới, khoảng 40% trước khi đưa vào phân loại và xử lý.

“70% sản lượng giấy của Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu là giấy phế liệu, trong đó chỉ gần 40% được thu gom trong nước, còn lại phải nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp tái chế giấy chuyên nghiệp, có năng lực tái chế tốt như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, họ rất cần nguồn nguyên liệu giấy và rõ ràng nhập khẩu là một giải pháp bắt buộc trong bối cảnh trong nước không đủ nguyên liệu sản xuất”, ông Dũng thông tin.

Dù còn nhiều dư địa cho ngành giấy phát triển, ông Dũng cũng lưu ý, việc nhập khẩu nguyên liệu giấy tái chế cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, đặt ra những thách thức về công tác quản lý, bài toán được - mất giữa sản xuất và môi trường.

“Đó là chưa kể quan ngại về việc nhập khẩu phế liệu sẽ biến Việt Nam trở thành bãi rác. Điều này chỉ đúng khi nguyên liệu nhập về không phục vụ cho bất cứ hoạt động sản xuất nào, còn một khi đã là nguyên liệu sản xuất quan trọng, lại là mặt hàng được giao dịch toàn cầu thì cần cẩn trọng xem xét”, ông Dũng nhấn mạnh.

Cần có cơ chế quản lý phù hợp

Trao đổi tại Hội thảo về Dự thảo sửa đổi Quyết định 73/2014/QĐ-TTg quy định danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam, đa phần ý kiến đều ghi nhận việc siết chặt quản lý nhập khẩu phế liệu này là cần thiết vì đã có một số doanh nghiệp lợi dụng những kẽ hở trong quản lý nhập khẩu phế liệu cho sản xuất để nhập “rác” vào Việt Nam, gây ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, nhiều nhóm phế liệu giấy như giấy hỗn hợp vẫn là nguyên liệu sản xuất quan trọng của các ngành công nghiệp tái chế, nhưng có khả năng sẽ bị đưa ra khỏi danh mục được phép nhập khẩu trong tương lai gần, dẫn đến nhiều vấn đề tồn đọng cho doanh nghiệp.

Tại hội thảo, ông Phạm Đình Thưởng, chuyên gia phân tích chính sách nhận định, nếu loại bỏ nguồn nguyên liệu tái chế này chắc chắn sẽ khiến các doanh nghiệp giấy lao đao, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn ngành giấy.

“Việc Chính phủ siết chặt quản lý đột ngột khiến doanh nghiệp lâm vào thế bị động. Nhà máy cần vận hành hằng ngày nhưng nguyên liệu cần lại không thể đến, khiến hoạt động sản xuất đình trệ. Việc này cũng sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền đến một chuỗi các ngành công nghiệp khác như ngành công nghiệp bao bì, ngành công nghiệp xuất khẩu...”, ông Thưởng khuyến cáo.

Ngành giấy Việt Nam đang có nhiều dư địa để phát triển. (Nguồn: Báo Lao động)

Về vấn đề này, Trưởng Ban Pháp chế VCCI, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, Việt Nam cần tham khảo chính sách quản lý nhập khẩu giấy phế liệu của các nước khác, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu tại Việt Nam để đưa ra được chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc các cơ quan Nhà nước có liên quan tham vấn các doanh nghiệp để có quan điểm khách quan hơn để dần hình thành và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý này là hoàn toàn cần thiết.

Trong phần thảo luận, nhiều ý kiến đại biểu cũng đưa ra kiến nghị về việc sử dụng các công cụ khác như phân luồng vi phạm theo mức độ, xác suất sai phạm qua kiểm định của các doanh nghiệp; tiến hành rà soát, chỉnh sửa tiêu chuẩn giấy tái chế đang nhập khẩu vào Việt Nam để giấy tái chế được quản lý và cân nhắc như tiêu chuẩn một nguồn nguyên liệu sản xuất; thay đổi tên nguyên liệu giấy từ “phế liệu giấy” thành “giấy thu hồi sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất”. Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, cần tính toán cân đối với sự phát triển kinh tế trong thời điểm hiện tại của Việt Nam để đưa ra định hướng chính sách phù hợp, đặc biệt là cân nhắc lộ trình áp dụng chính sách.

Về phía các doanh nghiệp giấy, môi trường vẫn luôn là ưu tiên hàng đầu trong phương thức sản xuất và xả thải, giữ vững tiêu chí sẵn sàng phối hợp cùng Chính phủ, đóng góp kiến thức khoa học kỹ thuật để tăng chất lượng sản phẩm, đảm bảo xử lý môi trường và góp phần phát triển kinh tế.