Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đón Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đến dự Phiên toàn thể Ngoại giao Kinh tế phục vụ phát triển đất nước. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Phiên toàn thể Ngoại giao Kinh tế phục vụ phát triển đất nước trong khuôn khổ Hội nghị Ngoại giao 32 vinh dự được đón tiếp Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tới dự và phát biểu chỉ đạo về công tác đối ngoại và ngoại giao kinh tế.
Cùng tham dự Hội nghị có Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung; Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên; Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt; Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Lê Minh Hoan; Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Lê Huy Vịnh; Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn; Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc…
Tham dự sự kiện trực tiếp và trực tuyến còn có lãnh đạo các ban, bộ, ngành, lãnh đạo 63 tỉnh, thành, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn.
Về phía Bộ Ngoại giao có Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh; cùng các lãnh đạo Bộ Ngoại giao, các Đại sứ, Trưởng Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, các Đại sứ được tiến cử và đông đảo cán bộ công chức, viên chức, người lao động của Bộ Ngoại giao.
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá, sau Đại hội Đảng thứ XIII, công tác Ngoại giao Kinh tế (NGKT) có 6 thành tựu nổi bật:
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu ý kiến chỉ đạo tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Thứ nhất, liên tục đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức về NGKT, nắm chắc tình hình khu vực, thế giới, tiếp tục tham mưu cho Đảng, Nhà nước, xây dựng chính sách và thực hiện chính sách về NGKT.
Thứ hai, kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Phát huy mạnh mẽ mối quan hệ giữa lấy nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, từ đó, huy động nguồn lực để phát triển đất nước.
Thứ ba, góp phần giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu, mang tính toàn dân như vấn đề đại dịch, vấn đề chống biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an ninh năng lượng.
Thứ tư, góp phần quan trọng tạo môi trường hòa bình, hợp tác, phát triển để huy động nguồn lực.
Thứ năm, thúc đẩy ngoại giao văn hóa, phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc với tinh thần “văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất, văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Thứ sáu, thúc đẩy ngoại giao nhân dân, thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa người dân với người dân, lấy doanh nghiệp, người dân làm trung tâm phục vụ. Thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các địa phương.
Thời gian tới, cần kế thừa từ giai đoạn trước và phát triển lên nữa, phù hợp với tình hình thế giới và giai đoạn hiện nay.
Cũng tại Hội nghị, Thủ tướng đã có phát biểu chỉ đạo phương hướng, nhiệm vụ của công tác NGKT trong tình hình mới.
Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu khai mạc và dẫn đề, nhấn mạnh tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn và quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ và các đồng chí Lãnh đạo Chính phủ đối với ngành Ngoại giao trong thời gian qua đã khẳng định sự coi trọng cũng như kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đối với công tác đối ngoại nói chung và ngoại giao nói riêng. Đây là nguồn cổ vũ, khích lệ lớn lao đối với đội ngũ cán bộ ngoại giao để bền bỉ phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp đối ngoại vẻ vang của đất nước.
Theo Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn, từ Hội nghị Đối ngoại toàn quốc lần thứ nhất và Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 đến nay, tình hình thế giới và khu vực đã trải qua những biến động lớn, phức tạp, tác động nhiều chiều đến phát triển kinh tế- xã hội của nước ta. Trong bối cảnh đó, bám sát đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, các chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, phát huy mạnh mẽ bản sắc "ngoại giao cây tre Việt Nam", vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược, linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên cường vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ngành Ngoại giao đã khắc phục nhiều khó khăn, thử thách, cùng các ngành, các cấp triển khai đồng bộ, hiệu quả các trụ cột, binh chủng đối ngoại và ngoại giao.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Phiên toàn thể Ngoại giao Kinh tế phục vụ phát triển đất nước. (Ảnh: Tuấn Anh) |
“Như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá tại Phiên toàn thể khai mạc Hội nghị Ngoại giao 32, công tác đối ngoại trong 3 năm qua đã “đạt nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước trong những năm qua”.
Các hoạt động đối ngoại diễn ra sôi động, rộng khắp các châu lục trên cả bình diện song phương và đa phương. Trong 3 năm qua, chúng ta đã tổ chức thành công 45 chuyến thăm của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt tới các nước láng giềng, các nước đối tác chiến lược, nhiều đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống và tham dự nhiều diễn đàn đa phương quan trọng, đồng thời đón gần 50 chuyến thăm của Lãnh đạo các nước đến Việt Nam, trong đó có những chuyến thăm mang tính lịch sử.
Cùng với đó, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao, khuôn khổ quan hệ với nhiều đối tác quan trọng được nâng lên tầm cao mới, mạng lưới quan hệ đối ngoại đã đạt được những bước phát triển mới về chất, củng cố vững chắc hơn cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi. Ngành Ngoại giao đã cùng với quốc phòng và an ninh giữ vững trật tự, an toàn xã hội bên trong, môi trường hòa bình, ổn định bên ngoài, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, huy động nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Trong bối cảnh thế giới nhiều bất ổn, cộng đồng quốc tế coi Việt Nam là điểm sáng để đầu tư, làm ăn kinh doanh”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu khai mạc Phiên toàn thể Ngoại giao Kinh tế phục vụ phát triển đất nước. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Trong thành tựu chung to lớn đó của đối ngoại, có đóng góp rất quan trọng của ngoại giao kinh tế. Quán triệt sâu sắc chủ trương Đại hội XIII của Đảng đã đề ra về “xây dựng nền ngoại giao kinh tế (NGKT) phục vụ phát triển lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ”, dưới sự chỉ đạo sâu sát của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp và thường xuyên là Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ, công tác ngoại giao kinh tế đã có những bước phát triển mới theo hướng toàn diện, thực chất và hiệu quả hơn. Cụ thể như:
Một là, đã được tổ chức quán triệt, triển khai một cách đồng bộ và thống nhất các chủ trương, định hướng lớn của Đảng về NGKT.
Hai là, đã phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong huy động các nguồn lực bên ngoài, đóng góp quan trọng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ: vừa phòng chống, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.
Ba là, thực hiện tốt chủ trương “lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ” trong các hoạt động NGKT.
Bốn là, triển khai NGKT có nhiều mặt được đổi mới, sáng tạo hơn, phát huy được sức mạnh tổng hợp, hiệp đồng của các ngành, các cấp.
Từ những thành quả to lớn cũng như từ toàn bộ hoạt động NGKT sôi động trong 3 năm qua đã mang lại cho ngành ngoại giao nhiều bài học quý về triển khai đối ngoại và NGKT. Theo Bộ trưởng, những bài học quý đó là luôn bám sát đường lối đối ngoại Đại hội XIII, chiến lược và định hướng phát triển đất nước, đồng thời nhạy bén, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những vấn đề mới phát sinh. Bài học về giữ vững bản lĩnh, bình tĩnh, sáng suốt đánh giá diễn biến tình hình quốc tế và trong nước, "biết thời, biết thế", "biết mình, biết người", biết tranh thủ thời cơ, hành động quyết liệt, hóa giải thách thức, "biến nguy thành cơ".
Đó cũng là bài học về không ngừng đổi mới, sáng tạo về tư duy, nhận thức và phương thức triển khai trong thực tiễn. Trước những diễn biến phức tạp, chưa có tiền lệ của tình hình, đòi hỏi mạnh dạn tìm cách làm mới, hướng đi mới, mở rộng sang các lĩnh vực mới.
Nêu bật nhận định của Đại hội XIII là “thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo” vẫn còn nguyên giá trị. Từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo, tính chất bất ổn và bất định của tình hình quốc tế sẽ còn tiếp diễn, có thể xuất hiện những nhân tố mới. Ở trong nước, kinh tế- xã hội tiếp tục phục hồi tích cực và phát triển, song vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đứng trước vận hội, thời cơ chiến lược để phát triển nhanh, bền vững đất nước. Các xu hướng mới về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra cơ hội lớn để nước ta có thể đón đầu, phát triển vượt lên và tiến cùng thời đại.
Toàn cảnh Phiên toàn thể Ngoại giao Kinh tế phục vụ phát triển đất nước. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Yêu cầu đặt ra đối với công tác NGKT là làm sao phát huy tối đa thế và lực mới của đất nước, tranh thủ tốt các điều kiện quốc tế thuận lợi và các xu thế phát triển của thế giới, khơi dậy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc kết hợp hiệu quả với các nguồn lực bên ngoài, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước.
Trên tinh thần bám sát đường lối đối ngoại Đại hội XIII và Chỉ thị 15 của Ban Bí thư về công tác NGKT, Bộ trưởng mong Hội nghị sẽ tập trung thảo luận hai vấn đề:
Thứ nhất, đánh giá và dự báo tình hình kinh tế quốc tế, nhất là làm rõ những chuyển động mang tính bước ngoặt, các xu hướng lớn của kinh tế thế giới và khu vực.
Thứ hai, đánh giá khách quan, toàn diện kết quả, thành tựu công tác ngoại giao kinh tế đã đạt được từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, nhất là từ sau khi ban hành Chỉ thị số 15 của Ban Bí thư và Chương trình hành động của Chính phủ về ngoại giao kinh tế; trong đó, làm rõ và sâu sắc hơn kết quả, rút ra các bài học kinh nghiệm.
Những xu hướng phát triển mới cần thích ứng mạnh mẽ
Đánh giá cập nhật triển vọng kinh tế thế giới, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Dũng cho biết, triển vọng kinh tế thế giới không mấy khả quan, dự báo chỉ phục hồi nhẹ vào năm 2024. Tuy nhiên, kinh tế thế giới đang chứng kiến những xu hướng phát triển mới mà tất cả các quốc gia, địa phương, doanh nghiệp trên toàn cầu đang phải thích ứng mạnh mẽ.
Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Dũng phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Từ đó, Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng đã chỉ ra ba xu hướng nổi trội mà chính phủ và doanh nghiệp Hoa Kỳ đang hết sức quan tâm:
Một là, xu hướng toàn cầu hoá, liên kết kinh tế thế giới đang thay đổi theo hướng tăng tính linh hoạt trong hợp tác thương mại, theo nhóm, theo khối, bảo hộ thương mại nhiều hơn. Do đó, doanh nghiệp đang tiếp tục dịch chuyển chuỗi cung ứng, sản xuất tới các quốc gia thân thiện, nội khối; tăng khả năng tự lực, tự cường trong nước để tăng khả năng ứng phó.
Hai là, xu hướng xanh hoá gắn với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng.
Ba là, kinh tế số, chuyển đổi số sẽ trở thành công cụ hỗ trợ, nâng cao năng lực chống chịu, hạn chế đứt gãy chuỗi cung ứng, tăng hiệu suất chất lượng hiệu quả, đây cũng là động lực tăng trưởng mới bao trùm và bền vững hơn.
“Những xu hướng mới đòi hỏi các quốc gia, các khu vực không thể đứng yên, đứng riêng lẻ mà cần sự hợp tác, chia sẻ lợi ích, rủi ro ngày càng cao”, Đại sứ chỉ rõ.
Về xu hướng đầu tư của doanh nghiệp Hoa Kỳ, Đại sứ Nguyễn Quốc Dũng thông tin, doanh nghiệp nước này thường ưu tiên cao sự ổn định, theo dõi sát và nhạy bén về chính trị. Hiện tại nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ quan tâm vào các lĩnh vực mới nổi như năng lượng tái tạo, chất bán dẫn, năng lượng xanh…
Đáng chú ý, các doanh nghiệp Hoa Kỳ thường có xu hướng hợp tác, đi cùng nhau để cùng tạo một quần thể hệ sinh thái hoàn chỉnh, thuận lợi về cơ sở hạ tầng, logistics, nguồn nhân lực, năng lượng, phong phú, ổn định…
Trên cơ sở đó, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ kiến nghị một số biện pháp nhằm cụ thể hóa nội hàm kinh tế trong quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ:
Thứ nhất, Việt Nam cần có cơ chế phối hợp liên ngành dưới sự chủ trì của một Phó Thủ tướng Chính phủ, từ các cơ quan đầu mối tổng hợp, rà soát, đôn đốc việc thực hiện các nội dung đã thoả thuận.
Thứ hai, Bộ ngành, các địa phương, tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu kỹ các văn kiện, chủ động đề xuất, rà soát các nội dung, kinh phí lộ trình hợp tác cụ thể; tiến hành các công việc chuẩn bị sẵn sàng về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực; chủ động liên hệ, tìm kiếm các đối tác, doanh nghiệp Hoa Kỳ.
Thứ ba, trong quý I/2024, các cơ quan đầu mối nên gặp gỡ, tiến hành họp với phía Hoa Kỳ để xác định rõ các ưu tiên và lộ trình thực hiện.
Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ sẽ tiếp tục làm tốt vai trò cầu nối, tư vấn, phối hợp với các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức trong nước để tìm kiếm, thương lượng với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tương ứng ở Hoa Kỳ; vận động được sự ủng hộ của Quốc hội, chính quyền Hoa Kỳ để có kinh phí cho các hoạt động hợp tác giữa hai nước.
Hợp tác Việt Nam-EU: Đúng lĩnh vực, đúng đối tác, đúng thời điểm
Phát biểu tham luận tại Hội nghị với chủ đề hợp tác giữa Việt Nam và EU về bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu, Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Bỉ, Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên minh châu Âu (EU) Nguyễn Văn Thảo nhấn mạnh: “Thời gian qua, quan hệ Việt Nam với EU đã đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực, trong đó có hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, theo Đại sứ Nguyễn Văn Thảo hai bên vẫn còn nhiều dư địa để thúc đẩy hợp tác hơn nữa. Việt Nam cần đề ra giải pháp phù hợp, tận dụng tối đa tiềm năng, cơ hội, vượt qua thách thức để đạt hiệu quả cao nhất”.
Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Bỉ, Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên minh châu Âu (EU) Nguyễn Văn Thảo phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Theo Đại sứ, hiện nay, Bộ Ngoại giao đang thực hiện các khâu cuối cùng trong Đề án phát triển hợp tác với EU đến năm 2030 và sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong thời gian tới.
Với một đối tác quan trọng như EU, chúng ta cần mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả trong từng giai đoạn, Việt Nam phải chọn các lĩnh vực trọng điểm để tạo tác động lan tỏa.
Với nhiệm vụ ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, từ góc độ địa bàn EU, chúng tôi xin kiến nghị đưa hợp tác bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu thành lĩnh vực hợp tác trọng điểm giữa hai bên trong thời gian tới. Đại sứ Nguyễn Văn Thảo cho rằng, có nhiều lý do để kiến nghị như trên:
Thứ nhất, hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp bách của đất nước và lợi ích của dân tộc. Môi trường là vấn đề toàn cầu, hợp tác quốc tế là cần thiết. EU là đối tác số 1 thế giới trong lĩnh vực này. Nhiều năm qua, EU đã đầu tư rất nhiều về tài chính, công nghệ, môi trường thể chế để thúc đẩy lĩnh vực này. Có thể nói, đây là đối tác rất phù hợp với chúng ta hiện nay.
Hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu không chỉ giúp giảm thiểu tác động từ môi trường mà quan trọng hơn, còn giúp chúng ta tăng khả năng thích ứng để phát triển bền vững.
Thứ hai, hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu sẽ tác động mạnh mẽ về thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với EU và khu vực. EU là đối tác quan trọng của Việt Nam nhưng kết quả đạt được vẫn còn xa với tiềm năng. Năm 2022, kim ngạch thương mại Việt Nam-EU đạt 52 tỷ USD, chỉ chiếm 1,7% tổng nhu cầu nhập khẩu của EU. Đầu tư của EU vào Việt Nam chỉ 27 tỷ USD, thua xa 1 số nước.
Bên cạnh đó, thời gian gần đây, EU đã ban hành một loạt các chính sách mới, như chính sách về carbon, chính sách về trách nhiệm giải trình... Những chính sách này sẽ có tác động mạnh mẽ đến xuất khẩu của Việt Nam nếu chúng ta không đáp ứng quy định, nhất là cách ngành lớn như dệt may, da giày… Vì thế, lựa chọn tốt nhất là Việt Nam chủ động thích ứng, hợp tác với EU trong lĩnh vực này.
“Và khi chúng ta đặt vấn đề mở rộng hợp tác với EU, đã được phía bạn đánh giá rất cao. Chúng tôi tin, đây là hướng tốt nhất để doanh nghiệp thích ứng với quy định mới của EU và tăng sức cạnh tranh”, Đại sứ Thảo nhấn mạnh.
Thứ ba, hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu với EU sẽ có tác động mạnh mẽ tới các lĩnh vực ưu tiên như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số. Có điều kiện để thúc đẩy hợp tác bền vững, điện gió, giảm phát thải nhựa đại dương và các vấn đề môi trường. Đây là các lĩnh vực EU có thế mạnh và có nhu cầu hợp tác, đồng thời sẵn sàng hợp tác với Việt Nam.
Hơn nữa, hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu hiện là xu thế của thế giới, không thể cưỡng lại. Trước mắt là EU ban hành các quy định này, sau đây sẽ là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc cũng sẽ ban hành các quy định tương tự. Nếu Việt Nam đi trước sẽ có cơ hội, tạo lợi thế cạnh tranh. EU muốn đa dạng hợp tác và Việt Nam được coi là đối tác quan trọng của EU trong khu vực.
Đại sứ Nguyễn Văn Thảo nhấn mạnh: “Lãnh đạo EU đánh giá cao cam kết của Việt Nam về chống biến đổi khí hậu và giảm phát thải carbon. Chúng tôi kiến nghị cần giữ đà quan hệ với EU, giữ hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu cần đúng lĩnh vực, đúng đối tác, đúng thời điểm”.
Chất keo gắn kết, đan xen lợi ích Việt Nam-Trung Quốc
Chia sẻ về thị trường Trung Quốc, Vụ trưởng Vụ Đông Bắc Á, Bộ Ngoại giao Phạm Thanh Bình nhận định, kinh tế Trung Quốc năm 2023 dự kiến tăng trưởng khoảng 5,2% như mục tiêu đề ra.
Hội nghị công tác Kinh tế Trung ương Trung Quốc năm 2023 vừa qua đã đặt ra những định hướng lớn về yêu cầu, nhiệm vụ cho năm 2024. Trong đó, tiếp tục chú trọng giữ vững ổn định, phòng ngừa rủi ro, nâng cao năng lực sáng tạo và tính tự chủ, thúc đẩy chuyển đổi tăng trưởng chất lượng cao. Đáng chú ý, Trung Quốc chú trọng hơn việc bảo đảm tăng trưởng và phát triển, xác định “lấy phát triển để bảo đảm ổn định”, lần đầu tiên đưa ra chủ trương “xây trước phá sau”.
Vụ trưởng Vụ Đông Bắc Á, Bộ Ngoại giao Phạm Thanh Bình phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Theo ông Phạm Thanh Bình, phần lớn các dự báo cho rằng, kinh tế Trung Quốc trong năm 2024 sẽ tiếp tục xu thế phục hồi, duy trì được mức tăng trưởng GDP khoảng 5%. Triển vọng kinh tế và những điều chỉnh chính sách của Trung Quốc có thể sẽ có một số tác động thuận nghịch đan xen tới kinh tế Việt Nam.
Về thương mại, việc Trung Quốc khôi phục phát triển ổn định, tiếp tục thúc đẩy nội nhu, khuyến khích tiêu dùng, chú trọng tăng cường bảo đảm an ninh lương thực… là yếu tố thuận lợi để tiếp tục mở rộng các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc.
Về đầu tư, việc Trung Quốc cho phép thực hiện song hành các mô hình tăng trưởng cũ, có thể khiến tình trạng sản xuất dư thừa càng thêm trầm trọng, nền kinh tế nước này càng có nhu cầu chuyển dịch ra bên ngoài qua các dự án đầu tư và hợp tác phát triển.
Vụ trưởng Vụ Đông Bắc Á cho rằng, việc tăng cường quan hệ hợp tác thực chất, nhất là về kinh tế thương mại với Trung Quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là chất keo gắn kết, đan xen lợi ích giữa hai nước, là yếu tố tích cực để củng cố nền tảng xã hội và tin cậy chính trị, là động lực góp phần duy trì sự phát triển ổn định quan hệ hai nước.
Vừa qua, Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đã xác định những định hướng lớn, quan trọng về việc tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt - Trung, trong đó bao gồm nhiều biện pháp lớn về làm sâu sắc hợp tác kinh tế thương mại.
Để triển khai thực hiện hiệu quả nhận thức chung Lãnh đạo cấp cao và khai thác tốt hơn nữa tiềm năng hợp tác giữa hai nước, ông Phạm Thanh Bình xin kiến nghị một số biện pháp như: Thiết lập, triển khai cơ chế rà soát, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá định kỳ, thường xuyên việc triển khai cụ thể hóa các thỏa thuận, chương trình hợp tác hai bên đã ký kết. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, định hướng dư luận nhằm gia tăng sự hiểu biết ở các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp về tiềm năng, ưu thế, nhu cầu hợp tác, tạo niềm tin và xung lực thúc đẩy hợp tác.
Về thương mại, tích cực mở rộng thị trường xuất khẩu các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh (nông, thủy, hải sản), nhất là tại các địa phương còn nhiều tiềm năng chưa khai thác của Trung Quốc như miền Trung, miền Bắc, Đông Bắc, Hoa Đông; từng bước thúc đẩy thương mại chính ngạch, chuyên nghiệp, hiện đại, phát triển bền vững...
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn chủ trì thảo luận tại Phiên toàn thể Ngoại giao Kinh tế phục vụ phát triển đất nước. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Về du lịch, thúc đẩy triển khai hiệu quả Kế hoạch hợp tác văn hóa - du lịch Việt Nam-Trung Quốc giai đoạn 2023-2027. Khẩn trương triển khai các chương trình quảng bá tại Trung Quốc, xây dựng các sản phẩm du lịch phù hợp nhu cầu, thị hiếu đa dạng của du khách Trung Quốc trong giai đoạn mới hậu Covid-19.
Về đầu tư, vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam gần đây có những cải thiện, song nhìn chung vẫn chưa có những dự án quy mô lớn, mang tính biểu tượng.
"Trong bối cảnh Trung Quốc có nhu cầu đầu tư đi ra bên ngoài, ta cần tăng cường thống nhất nhận thức trong nội bộ, sớm xác định một số dự án hợp tác cụ thể, phù hợp với nhu cầu, tiêu chuẩn của ta mà Trung Quốc có ưu thế, như cơ sở hạ tầng chiến lược, công nghiệp phụ trợ, năng lượng xanh, năng lượng tái tạo… để trao đổi, thúc đẩy hợp tác...", ông Phạm Thanh Bình nhấn mạnh.
Cơ hội thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư quốc gia khu vực Trung Đông
Thông tin về mô hình quỹ đầu tư quốc gia ở khu vực Trung Đông, cơ hội, thách thức đối với Việt Nam, Đại sứ Việt Nam tại Saudi Arabia Đặng Xuân Dũng cho biết, nhiều quốc gia tại khu vực Trung Đông coi các Quỹ đầu tư công là một trong những công cụ quan trọng để phát triển đất nước và phát huy vai trò, vị thế ở khu vực và quốc tế.
Đại sứ Đặng Xuân Dũng cho biết, hiện khu vực vùng Vịnh đang có 5 Quỹ đầu tư công, bao gồm: Cơ quan Đầu tư Abu Dhabi (ADIA) của UAE; Cơ quan Đầu tư Kuwait (KIA); Quỹ đầu tư công (PIF) của Saudi Arabia; Cơ quan Đầu tư Qatar (QIA); Bahrain và Oman.
Nhận định về cơ hội để Việt Nam có thể tận dụng nguồn tài chính của các quỹ đầu tư công lớn tại vùng Vịnh, người đứng đầu Cơ quan đại diện Việt Nam tại Saudi Arabia cho hay, có 3 cơ hội:
Thứ nhất, các quỹ này đã và đang có kế hoạch đa dạng hóa địa điểm đầu tư, không chỉ tập trung vào các thị trường truyền thống như châu Âu và Mỹ mà còn dần mở rộng ra các khu vực khác, trong đó có châu Á;
Thứ hai, các quỹ đầu tư công tại vùng Vịnh đang để ý nhiều hơn tới các nước mới nổi trên cơ sở đánh giá nhóm nước này có thể mang lại lợi nhuận cao hơn cho họ so với các khoản đầu tư an toàn truyền thống tại châu Âu và Mỹ;
Thứ ba, các quỹ đầu tư hiện có xu hướng đa dạng hoá danh mục đầu tư, không chỉ tập trung vào các khoản đầu tư truyền thống như trái phiếu, bất động sản… mà còn hướng tới các lĩnh vực khởi nghiệp công nghệ mới, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, fintech và đặc biệt là blockchain.
Đại sứ Việt Nam tại Saudi Arabia Đặng Xuân Dũng phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Tuy nhiên, theo Đại sứ Đặng Xuân Dũng, có 4 thách thức nổi bật gồm:
Thứ nhất, các quỹ hiện dành nhiều vốn vào phát triển các dự án trong nước, chỉ một phần không lớn trong số vốn của họ được đầu tư ra nước ngoài (như PIF chỉ khoảng 15-20%);
Thứ hai, châu Á vẫn chưa là thị trường đầu tư trọng tâm của các quỹ này. Nếu nhìn vào châu Á thì hiện nay vốn đầu tư của các quỹ này tập trung nhiều hơn vào Đông Bắc Á-Trung Quốc;
Thứ ba, ngay tại khu vực Đông Nam Á, ta phải cạnh tranh thu hút vốn với các nước láng giềng như Malaysia, Singapore, Indonesia…
Thứ tư, là yếu tố chủ quan, các doanh nghiệp của ta dường như chưa chủ động tiếp cận nguồn vốn từ các quỹ đầu tư vùng Vịnh, chưa tập trung nghiên cứu về đặc thù của các quỹ đầu tư này, hoặc khảo sát thị trường và xây dựng các kế hoạch thu hút vốn một cách bài bản, đủ thuyết phục để các quỹ sẵn sàng bỏ tiền đầu tư.
Từ đó, Đại sứ Đặng Xuân Dũng đề xuất 3 kiến nghị:
Về khung pháp lý, cần hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư với các nước tại khu vực để các Quỹ đầu tư thêm tin tưởng và mạnh dạn đầu tư. Ví dụ như với Saudi Arabia , ta cần sớm có Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương.
Các Bộ ngành liên quan cần có nhiều hơn các nghiên cứu chuyên sâu để đánh giá đúng về nguồn lực thực sự cũng như tiềm năng của các Quỹ đầu tư công tại khu vực Trung Đông, nắm chắc những nét đặc thù của họ để thu hút hiệu quả nguồn vốn từ khu vực cho những dự án ta cần và xứng tầm với các Quỹ này.
Doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động hơn trong việc lập chiến lược thu hút vốn bài bản với những dự án phù hợp dành riêng cho các nhà đầu tư khu vực vùng Vịnh thay vì chỉ kêu gọi vốn qua các dự án chung chung, không đáp ứng được yêu cầu hết sức cụ thể của đối tác tiềm năng.
“Đại sứ quán tại khu vực Trung Đông luôn đồng hành và hỗ trợ hết mình các doanh nghiệp Việt Nam có kế hoạch sang tìm hiểu, khảo sát thị trường và tiếp cận các quỹ đầu tư tại khu vực”, Đại sứ khẳng định.
Xây dựng TP. Hồ Chí Minh thành trung tâm kinh tế - tài chính hàng đầu cả nước
Phát biểu tham luận tại Hội nghị, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh Võ Văn Hoan cho biết, từ đầu những năm 2000, trong định hướng phát triển, Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã chú trọng phát triển thị trường tài chính; xem đây là một trong những lĩnh vực ưu tiên của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó hình thành ý tưởng về việc xây dựng Trung tâm Tài chính quốc tế của Việt Nam tại Thành phố.
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ đều rất quan tâm định hướng phát triển Thành phố Hồ Chí Minh như một đô thị đặc biệt, một trung tâm kinh tế - tài chính - dịch vụ hàng đầu của cả nước. Tháng 10/2023, Chính phủ đã ban hành Quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đề án Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban. Điều này không chỉ thể hiện khát vọng của Thành phố, mà còn thể hiện ý chí quyết tâm của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ nhằm nỗ lực thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về việc “thúc đẩy Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Trung tâm Tài chính quốc tế”, góp phần thực hiện hóa mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh Võ Văn Hoan phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Ông Hoan cho biết, theo Báo cáo xếp hạng Trung tâm tài chính toàn cầu, Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố duy nhất ở Việt Nam được ghi nhận như một Trung tâm tài chính thứ cấp từ tháng 3/2020 cho đến nay. Vị thế của một Trung tâm tài chính được đánh giá dựa trên năm trụ cột là: Môi trường kinh doanh, Nguồn nhân lực, Cơ sở hạ tầng, Mức độ phát triển ngành tài chính và Danh tiếng thành phố.
Mặc dù, thị trường vốn của Việt Nam đang được nhận định có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong hai thập kỷ qua; quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP tăng từ 11% vào năm 2011 lên 54% năm 2020, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 95% tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường và 64,8% GDP cả nước; tuy nhiên, vẫn còn khá thấp so với một số nước trong ASEAN (Singapore, Thái Lan, Malaysia và Philippines).
Thị trường trái phiếu vẫn còn hạn chế trong các loại sản phẩm và dịch vụ liên quan trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ tiếp tục chiếm ưu thế. Trong các năm gần đây thị trường vốn đã xuất hiện các hoạt động dịch vụ tài chính mới nổi như: chứng khoán phái sinh, Bảo hiểm, mua bán - sáp nhập (M&A), quản lý quỹ, quản lý tài sản, ngân hàng số và công nghệ tài chính,... nhưng chưa có các dịch vụ tài chính huy động vốn gắn với khả năng chấp nhận rủi ro cao, như nguồn vốn mạo hiểm; trái phiếu xanh; hoạt động niêm yết chéo...
Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự phát triển của trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh còn có sự đóng góp không nhỏ từ nguồn lực tài chính từ bên ngoài, từ các khoản viện trợ, hợp tác, kiều hối, dự án đầu tư nước ngoài… thông qua các hoạt động ngoại giao kinh tế. Trong năm 2023, công tác ngoại giao kinh tế được Thành phố đặc biệt đẩy mạnh nhằm mục tiêu phục hồi kinh tế - xã hội và xây dựng hình ảnh của Thành phố hậu Covid-19.
Kết quả năm 2023, Thành phố thu hút vốn FDI được khoảng 3,4 tỷ USD; lượng kiều hối chuyển về đạt gần 9 tỷ USD, tăng hơn 35% so với cùng kỳ năm 2022. Các nguồn lực tài chính được thu hút thông qua các hoạt động ngoại giao kinh tế và các chính sách thu hút hiệu quả của Thành phố có vai trò quan trọng, góp phần tạo nguồn lực, mở rộng và đẩy mạnh phát triển các dịch vụ tài chính, giao dịch tài chính từng bước hình thành diện mạo một trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố theo định hướng.
Để phát triển từ một Trung tâm tài chính thứ cấp thành Trung tâm tài chính toàn cầu thực thụ, đòi hỏi Thành phố Hồ Chí Minh phải nỗ lực cải thiện đồng bộ các trụ cột về năng lực cạnh tranh của trung tâm tài chính, làm rõ mô hình và lựa chọn hướng đi phù hợp, xác định chiến lược và các quyết sách mang tính đột phá để có thể cạnh tranh, thu hút, mời gọi các nhà đầu tư, các tập đoàn lớn có tầm ảnh hưởng, dẫn dắt dòng vốn quốc tế vào thị trường Việt Nam.
Toàn cảnh Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, trong thời gian tới, Thành phố sẽ thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tiếp tục triển khai hiệu quả, đồng bộ các hoạt động đối ngoại của Đảng bộ, Chính quyền, đối ngoại nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa thông tin đối ngoại, công tác người Việt Nam ở nước ngoài trên tinh thần chủ động và sáng tạo, thực chất và chuyên nghiệp, phù hợp với đặc điểm và tình hình Thành phố; tập trung xây dựng thương hiệu và quảng bá hình ảnh quốc tế về Thành phố thân thiện, năng động, an toàn, là điểm đến hấp dẫn của du khách và nhà đầu tư quốc tế.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy triển khai các cam kết, các dự án chương trình hợp tác của Thành phố và các đối tác quốc tế một cách hiệu quả và thực chất.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác về người Việt Nam ở nước ngoài nhằm thu hút và phát huy nguồn lực tri thức, nguồn kiều hối phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Thứ tư, Thành phố mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên sát sao của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, nhất là Bộ Ngoại giao và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để hình thành khung chính sách vượt trội so với các Trung tâm tài chính quốc tế trong khu vực ASEAN; hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đảm bảo minh bạch, an toàn cho các nhà đầu tư tài chính và kêu gọi các nhà đầu tư quốc tế đến đầu tư tại Trung tâm Tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh.
“Về phần mình, Thành phố cam kết sẵn sàng quỹ đất; sẵn sàng quy hoạch; sẵn sàng hạ tầng; sẵn sàng nguồn nhân lực để đáp ứng cho các nhà đầu tư”, lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh.
Tranh thủ các FTA để “bứt tốc” xuất khẩu
Tham luận tại Hội nghị về Kinh nghiệm tranh thủ các hiệp định thương mại tự do ở địa phương để “bứt tốc” xuất khẩu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Trần Tuyết Minh cho biết, Bình Phước có đặc thù là một tỉnh đang phát triển, có đường biên giới kéo dài hơn 259 km với nước bạn Campuchia. Sự đồng hành, hỗ trợ, chỉ đạo sâu sát của Bộ Ngoại giao trong suốt thời gian qua đã củng cố sự gắn bó bền chặt, sát cánh giữa Bình Phước cùng nước bạn.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Trần Tuyết Minh phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Bà Trần Tuyết Minh nhấn mạnh: “Bộ Ngoại giao luôn đồng hành cùng tỉnh tổ chức thành công của các chuyến thăm, làm việc với các nước láng giềng, các nước đối tác chiến lược, quan trọng. Bởi vậy, đã mở ra cơ hội phát triển đối ngoại và hội nhập quốc tế của tỉnh ngày càng sâu, rộng, hiệu quả và bền vững hơn.
Chia sẻ kinh nghiệm tận dụng các FTA để bứt tốc xuất khẩu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước cho biết, tỉnh luôn phấn đấu gia nhập vào 111 thị trường xuất nhập khẩu lớn của thế giới. Trong đó, 58 nền kinh tế đã có FTA với Việt Nam, nhiều sản phẩm chủ lực của tỉnh trở thành Top 10 sản phẩm chủ lực của quốc gia như: Hạt điều, hạt tiêu, cao su, sản phẩm gỗ, đồng thời có sản phẩm chủ lực quốc tế như hạt điều, cao su. Bình Phước cũng đã thâm nhập sâu vào 94% các thị trường có FTA.
Qua đó, bà Minh nhấn mạnh, tỉnh đã đạt được bình quân kim ngạch xuất khẩu hàng năm 5 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh năm 2023 nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành phố có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cao nhất nước và nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố có tỷ trọng xuất siêu cao nhất.
Thời gian tới, để tăng tốc, Bình Phước phải vượt qua được thách thức rất lớn, đó là tình hình kinh tế thế giới và trong nước sụt giảm, nhu cầu khác xa so với dự báo, trong khi Bình Phước phụ thuộc mạnh vào xuất nhập khẩu nên càng phải đối mặt với những diễn biến mới, xuất hiện nhanh chóng, phức tạp, khó lường và gay gắt hơn rất nhiều.
Trước bối cảnh này, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước cho biết, tỉnh đã liên tục họp bàn với cộng đồng doanh nghiệp tận dụng mọi cơ hội hiện có về khai thác quy mô thị trường lớn trong nước mà lâu nay chưa khai thác triệt để, ứng dụng thương mại điện tử xuyên quốc gia, chú tâm vào chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế...
Bình Phước lựa chọn hỗ trợ cụ thể hơn, chi tiết hơn bằng cách luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, tháo gỡ ngay những khó khăn, vướng mắc thuộc về khả năng của tỉnh, như cơ chế thông tin cập nhật, mở cửa thị trường mới, tìm kiếm đối tác đủ mạnh, đẩy nhanh thủ tục hành chính, quỹ đất sẵn sàng cho sản xuất kinh doanh, tập huấn cho các doanh nghiệp về quy tắc hưởng lợi thế trong các FTA...
Đồng thời, tỉnh xác định có quá nhiều việc phải làm và nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp địa phương cũng rất lớn, nên để xuất khẩu đã khó mà để “bứt tốc” xuất khẩu thì phải có bước chuẩn bị rất kỹ lưỡng, tham gia ngay từ quá trình ngành Ngoại giao, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,… dự thảo, đàm phán các FTA.
Ngoài ra, Bình Phước đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cộng đồng doanh nghiệp có ý kiến đóng góp. Chỉ với tâm thế chủ động của cả nhà nước và tư nhân trong hội nhập thì cơ hội từ các FTA mới đến được cộng đồng doanh nghiệp của tỉnh kịp thời, hiệu quả.
Cụ thể hóa các cơ hội để xây dựng ngành bán dẫn tại Việt Nam
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, Đại tá Đào Xuân Vũ cho biết, ngành Công nghiệp bán dẫn toàn cầu đạt 600 tỷ USD năm 2022, dự báo chạm và vượt ngưỡng 1.000 tỷ USD vào năm 2030 với mức tăng trưởng hàng năm trung bình đạt hai con số.
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, Đại tá Đào Xuân Vũ phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Ngành công nghiệp bán dẫn được xem là một trong những ngành công nghiệp xương sống, cốt lõi để phát triển kinh tế bởi nó là công nghiệp nền tảng để phát triển các ngành khác như Điện - Điện tử, Tự động hóa, Viễn thông và Công nghệ thông tin... Hiện nay, rất nhiều nước trên thế giới đang nỗ lực xây dựng ngành công nghiệp bán dẫn để nâng cao khả năng tự chủ của nền công nghiệp quốc gia.
Theo đánh giá của các chuyên gia, tổ chức tư vấn, của Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn Mỹ và căn cứ từ kết quả nghiên cứu, phân tích của Bộ Ngoại giao khi làm việc với các chuyên gia nước ngoài thì Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng để tham gia và phát triển ngành công nghiệp bán dẫn: hệ thống chính trị ổn định, vị trí địa lý thuận lợi; lực lượng lao động trẻ tiềm năng với chi phí lao động hợp lý, có nền tảng tốt trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ phù hợp với ngành bán dẫn; có hệ sinh thái bán dẫn đang dần hình thành; có trữ lượng đất hiếm đạt khoảng 22 triệu tấn, đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc.
Mặc dù vậy, theo đại diện Viettel, việc Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu đang phải đối mặt với nhiều thách thức và trở ngại: Công nghệ bán dẫn là công nghiệp bị hạn chế tiếp cận, từ phần mềm hỗ trợ thiết kế cho đến máy móc, vật liệu cũng như quy trình sản xuất; đây là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, rất đặc thù; nguồn vốn cho thiết kế và đầu tư, vận hành nhà máy sản xuất rất lớn; cần có hệ sinh thái đầy đủ, đồng bộ với nhà máy sản xuất; cơ sở hạ tầng cho nhà máy sản xuất chất bán dẫn còn chưa đảm bảo, cần sử dụng rất nhiều điện và nước cho sản xuất chíp bán dẫn.
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Ban, Bộ, ngành Trung ương đặc biệt là Bộ Ngoại giao để cụ thể hóa các cơ hội hợp tác, kết nối và huy động các nguồn lực quốc tế trong việc xây dựng ngành bán dẫn tại Việt Nam, bao gồm:
Thứ nhất, xúc tiến với các công ty để xây dựng nhà máy sản xuất chíp bán dẫn tại Việt Nam, từ đó phát triển dần hệ sinh thái bán dẫn trong nước làm tiền đề để các công ty bán dẫn trong nước có cơ hội về thị trường để từ đó xác định lộ trình đầu tư, phát triển phù hợp.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng các chương trình làm việc với các chính phủ và doanh nghiệp lớn về bán dẫn để tìm hiểu về các cơ chế chính sách đặc thù cần có để phục vụ xây dựng cơ chế chính sách phát triển công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam.
Thứ ba, thị trường đầu ra cho ngành bán dẫn phụ thuộc rất nhiều vào các công ty sản xuất điện tử và công ty thiết kế chíp bán dẫn lớn nên đề nghị Bộ Ngoại giao và Bộ Kế hoạch & Đầu tư cùng các bộ ngành liên quan khác xây dựng kế hoạch xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường đầu ra cho công nghiệp bán dẫn Việt Nam.
Cuối cùng, đẩy mạnh kết nối, hợp tác nghiên cứu sản xuất với các doanh nghiệp và các chuyên gia bán dẫn tại nước ngoài.
Phát huy vai trò tiên phong của Ngoại giao kinh tế
Tham luận tại Hội nghị, ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương đặt câu hỏi: Làm thế nào để ngoại giao kinh tế có thể phát huy tốt vai trò tiên phong trong thu hút nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay như Chỉ thị số 15-CT/TW đã đề ra?”.
Ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Theo ông Sơn, có 6 khía cạnh cần quan tâm. Đầu tiên, cần xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao kinh tế trong thu hút nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước, đó là thu hút nguồn lực bên ngoài nhằm thực hiện các đột phá chiến lược để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số, kinh tế xanh. Cụ thể hơn là thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ hoàn thiện thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh; phát triển cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và khoa học - công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số và kinh tế xanh.
Thứ hai, tiếp tục tuyên truyền, quán triệt các quan điểm của Đảng được thể hiện trong văn kiện Đại hội XIII và Chỉ thị số 15-CT/TW về vai trò của ngoại giao kinh tế trong phát triển đất nước trong bối cảnh mới, qua đó, tạo sự thống nhất và nâng cao nhận thức của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về vai trò tiên phong của ngoại giao kinh tế trong thu hút nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước, đặc biệt là cho thực hiện các đột phá chiến lược nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số, kinh tế xanh; về quan điểm thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài; về chủ trương lấy người dân, địa phương, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ…
Thứ ba, phát huy cao nhất những lợi ích tích cực của những hoạt động ngoại giao đã được thực hiện như kết quả các chuyến thăm cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc; nâng cấp quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác, đặc biệt là việc nâng cấp quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ lên thành quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hình thức ngoại giao mới đã được triển khai như ngoại giao kinh tế số, ngoại giao khí hậu, ngoại giao công nghệ… như kế hoạch hành động ngoại giao khí hậu (2022-2026)…
Thứ tư, hướng các các hoạt động ngoại giao trong thu hút các nguồn lực bên ngoài để thực hiện các đột phá chiến lược cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh vào những lĩnh vực có tính thiết thực, cấp thiết và mang tính dẫn dắt đối với phát triển đất nước; gắn chặt với nhu cầu của địa phương và doanh nghiệp.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác nghiên cứu, tham mưu và dự báo về các xu hướng phát triển kinh tế mới; kinh nghiệm của các nước trên thế giới về hoàn thiện thể chế; xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế số và kinh tế xanh.
Thứ sáu, tiếp tục phát huy cao nhất các trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; ngoại giao của tất cả các cấp, ngành, địa phương để thu hút đa dạng các nguồn lực bên ngoài (tài lực, vật lực, nhân lực, trí lực) nhưng có chọn lọc cho thực hiện các đột phá chiến lược nhằm phát triển kinh tế số và kinh tế xanh, chẳng hạn như nguồn vốn FDI chất lượng cao, công nghệ xanh, công nghệ lượng tử, trí tuệ nhân tạo, tài chính xanh, vốn ODA xanh…
(Ảnh: Tuấn Anh) |
Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh: “Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới. Đây là giai đoạn phát triển với thế và lực mới, với tầm nhìn và mục tiêu đặt ra cụ thể hơn và khát vọng hơn về phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc; là giai đoạn phát triển mang tính bền vững hơn, bao trùm hơn, dựa nhiều hơn vào nâng cao hiệu quả các nguồn lực và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi nhanh, mạnh và khó lường. Vì vậy, vai trò tiên phong của ngoại giao kinh tế trong thu hút nguồn lực bên ngoài cho thực hiện các đột phá chiến lược nhằm phát triển kinh tế số và kinh tế xanh được phát huy tốt sẽ góp phần giúp đạt được các mục tiêu kể trên”.
Người bạn đồng hành mới - ngoại giao nông nghiệp
Dẫn lời phát biểu của một vị Giáo sư, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan cho hay, cây lúa Việt Nam luôn sẵn lòng học hỏi, hội nhập với thế giới, tự tin về chất lượng, sản lượng, hương vị thơm ngon. Việt Nam có thế mạnh về xuất khẩu lúa gạo và có liên hệ chặt chẽ với ngành Ngoại giao.
Sự kiện ý nghĩa Festival quốc tế ngành hàng lúa gạo Việt Nam - Hậu Giang 2023 vừa diễn ra tại Hậu Giang đã giúp lúa, gạo nâng tầm về chất lượng, quy mô, tầm cỡ. Cây lúa, gạo Việt Nam trở nên gần gũi hơn với các đối tác quốc tế.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, triển khai nghị quyết 15 về công tác NGKT phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030, ký kết Kế hoạch hành động giai đoạn 2023-2026 về NGKT đóng góp thúc đẩy phát triển ngành Nông nghiệp Việt Nam. Trong đó, 6 nhiệm vụ trọng tâm gồm: Mở rộng thị trường cho các sản phẩm nông-lâm-thủy sản; tận dụng các nguồn lực phục vụ phát triển con người; xúc tiến quảng bá các sản phẩm hội nhập quốc tế; thúc đẩy các hình thức hợp tác mới; truyền thông, quảng bá, phát triển thương hiệu nông sản; tham mưu, hỗ trợ ngành nông nghiệp.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Hiện nay, thông tin kết nối giữa ngành Ngoại giao và Nông nghiệp đặc biệt nhanh chóng, liên tục, xuyên suốt, đa dạng thông tin. Tôi luôn trân trọng những chia sẻ của các vị Đại sứ, Trưởng cơ quan đại diện. “Những thông tin quý về các thị trường nông sản tiềm năng, xu thế biến động của thế giới, các cam kết trên toàn cầu.. để ngành Nông nghiệp có thêm căn cứ quan trọng để kịp thời ghi nhận, điều chỉnh, đáp ứng những chuyển động của thế giới”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho rằng, ấn phẩm Đặc san chào mừng Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 của Báo Thế giới & Việt Nam giới thiệu bài viết có tiêu đề rất đáng suy nghĩ: “Một thế giới đang chuyển mình”. Ngoài kia, gió đang nổi. Góc nhìn và cách tiếp cận mới luôn rộng mở. Phải chăng đã đến lúc NGKT, ngoại giao văn hóa, ngoại giao đa phương đang đón chào thêm một người bạn đồng hành mới là ngoại giao nông nghiệp. Ngoại giao gắn với phát triển nông nghiệp bền vững, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, cân bằng dinh dưỡng.
“Qua các sự kiện đối ngoại, địa phương tự hào, say sưa giới thiệu với thế giới quả mướp, quả nho... Hình như trong phương diện thị trường, tiếp thị, quảng bá, đối ngoại không phân biệt giữa doanh nghiệp, nông dân hay những người đứng đầu đất nước. Hình như không chỉ là thương mại nông sản mà trong lời giới thiệu, quảng bá hình ảnh địa phương, đất nước thương hiệu quốc gia cũng được kiến tạo từ cách tiếp cạnh từ hình ảnh nông sản của đất nước.
Tự hào thay, các sản phẩm nông nghiệp, OCOP, sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ các làng nghề vinh dự được làm quà tặng đối ngoại cấp cao. Điều này gửi đến thông điệp: Nông nghiệp Việt Nam hội tụ giá trị, lan tỏa văn hóa”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan trải lòng.
Công thương - Ngoại giao chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định, cùng với các Bộ, ngành liên quan, ngành Công Thương đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với ngành Ngoại giao trong triển khai đồng bộ, hiệu quả các hoạt động ngoại giao kinh tế, góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Trong đó, nổi bật là hai ngành đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong công tác tham mưu với Chính phủ đẩy mạnh các hoạt động đàm phán, ký kết mới và nâng cấp các FTA, các thỏa thuận hợp tác kinh tế, thương mại với các đối tác lớn, tiềm năng, giúp các doanh nghiệp khai thác, tận dụng hiệu quả các FTA mà Việt Nam là thành viên để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và sản phẩm xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, để tiếp tục duy trì tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trụ cột xuất khẩu, cần tiếp tục thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc tận dụng tối đa các cơ hội, lợi thế từ các FTA đã ký kết, đồng thời chú trọng khai thác các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng và phù hợp với các ngành hàng có thế mạnh của Việt Nam; trong đó, việc thâm nhập thành công thị trường Halal có ý nghĩa rất quan trọng, bởi quy mô thị trường Halal toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong thời gian tới (dự kiến khoảng 10.000 tỷ USD vào năm 2028); cùng với đó, ngành công nghiệp Halal nói chung và thực phẩm Halal nói riêng cũng có quy mô lớn, tiềm năng tăng trưởng cao, trong khi Việt Nam được đánh giá là có thế mạnh trong lĩnh vực này.
Ở dưới góc độ ngành Công thương, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã đề xuất một số giải pháp để tiếp tục nâng cao hiệu quả phối hợp triển khai công tác ngoại giao kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu hàng hóa, trong đó có sản phẩm Halal.
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc và đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền triển khai có hiệu quả các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ngoại giao kinh tế để nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này đối với góp phần phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, tạo đồng thuận xã hội.
Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây dựng thể chế, từng bước hoàn thiện Khung khổ pháp lý về hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm đồng bộ, khả thi và phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế; bên cạnh đó, cần có các cơ chế chính sách, giải pháp ràng buộc, kết nối chặt chẽ giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước trong việc hỗ trợ, chuyển giao công nghệ sản xuất, kỹ năng quản trị, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt, đáp ứng yêu cầu tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Thứ hai, trong bối cảnh chính trị - kinh tế thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, cần tăng cường hơn nữa việc phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, đặc biệt là những vấn đề mới nổi có thể tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế đất nước, từ đó tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước các phản ứng chính sách phù hợp.
Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế phối hợp liên ngành với sự phân công, xác định rõ ràng, cụ thể vai trò, trách nhiệm của từng Bộ, ngành trong quá trình phối hợp triển khai các hoạt động ngoại giao kinh tế, bảo đảm thông tin trao đổi được thông suốt, kịp thời để xử lý nhanh chóng, hiệu quả các vấn đề mới phát sinh trong quan hệ kinh tế và thương mại quốc tế.
Thứ ba, sớm xây dựng, ban hành Chiến lược mới về tham gia các thoả thuận thương mại tự do theo hướng chọn lọc đàm phán, ký kết các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới trên nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nhằm thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế theo chiều sâu, hiệu quả và thực chất. Tiếp tục đẩy nhanh đàm phán các FTA mới với các đối tác còn nhiều tiềm năng ở khu vực Trung Đông, châu Phi, Nam Mỹ… tạo dư địa cho hàng hoá Việt Nam (trong đó có các sản phẩm Halal) xâm nhập vào các thị trường này; đồng thời, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các FTA mà Việt Nam là thành viên để mở rộng, đa dạng hoá thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động để phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài để nắm bắt, cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường và các quy định, chính sách mới của các nước sở tại; cảnh báo sớm các “rào cản” mới của đối tác và các vụ kiện thương mại, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp có phản ứng chính sách phù hợp, hiệu quả; đồng thời, tăng cường công tác phòng vệ thương mại, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, phát triển dịch vụ logistic và thương mại điện tử; tập trung tháo gỡ rào cản kỹ thuật để hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập các thị trường mới, còn tiềm năng. Thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch gắn với xây dựng, phát triển và quảng bá các sản phẩm thương hiệu quốc gia, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và thương hiệu ngành hàng ở thị trường nước ngoài để duy trì, củng cố các thị trường truyền thống và phát triển các thị trường mới, thúc đẩy xuất khẩu bền vững.
(Ảnh: Tuấn Anh) |
Đối với ngành Halal, việc Việt Nam đạt được thỏa thuận mang tính nguyên tắc để hướng tới sớm ký Hiệp định thương mại tự do với UAE nhân chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ vừa qua được coi là bước tiến quan trọng ban đầu, đặt nền tảng cho việc phát triển sang Trung Đông và các thị trường Halal khác trong thời gian tới.
Tuy nhiên do các doanh nghiệp Việt Nam mới quan tâm và tiếp cận thị trường này, vì vậy cần nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng về các tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện của thị trường cũng như quy trình, thủ tục cấp chứng nhận Halal và các thông tin liên quan để phổ biến, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp và đăng ký thành công các chứng chỉ cần thiết; đồng thời, chú trọng xây dựng thương hiệu hàng hoá và đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá thương hiệu ngành Halal của Việt Nam trên thị trường Halal toàn cầu.
“Ở cấp độ quốc gia, đề nghị Bộ Ngoại giao tiếp tục phát huy vai trò đầu mối, chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, địa phương liên quan để triển khai có hiệu quả Đề án ‘Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển ngành Halal Việt Nam’, nhất là việc thúc đẩy ký kết các thỏa thuận nhằm tạo khuôn khổ pháp lý để tăng cường hợp tác quốc tế về Halal; đẩy mạnh nghiên cứu, cung cấp thông tin liên quan tới chính sách thương mại, văn hóa Hồi giáo, chứng nhận Halal….
Đồng thời, tăng cường hỗ trợ, kết nối các địa phương, doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác ở một số nước có kinh nghiệm và vai trò quan trọng trong ngành Halal toàn cầu như Indonesia tại khu vực Đông Nam Á hoặc Saudi Arabia tại khu vực Trung Đông, châu Phi nhằm huy động các nguồn lực quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam bài bản, chuyên nghiệp, toàn diện”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Yêu cầu đặt ra với công tác ngoại giao kinh tế trong giai đoạn mới
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương tập trung vào yêu cầu đặt ra với thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn mới cũng như vai trò, sự hợp tác giữa Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan khác về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Theo ông Phương, trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy biến động phức tạp, khó lường, cơ hội và thách thức đan xen, tuy nhiên, với nỗ lực không biết mệt mỏi, bằng những quyết sách đúng đắn, ứng phó kịp thời, chắt chiu từng cơ hội, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận như Thủ tướng Chính phủ đã chia sẻ. Nhờ vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục đạt nhiều kết quả trong thu hút đầu tư nước ngoài và duy trì là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trên thế giới.
Về đầu tư, Việt Nam hiện có khoảng 38.700 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 460 tỷ USD từ 143 quốc gia, vùng lãnh thổ. Các nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam cũng là các quốc gia, nền kinh tế lớn như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... Đối với đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam hiện có gần 1.680 dự án ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 22,1 tỷ USD sang 80 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Về hỗ trợ phát triển, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết trong năm 2023 đạt khoảng 561 triệu USD. Lũy kế giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công vốn nước ngoài từ đầu năm đến nay ước đạt khoảng 11.000 tỷ đồng.
Với những kết quả đạt được, Việt Nam tiếp tục được nhiều tổ chức quốc tế uy tín như S&P, Fitch Ratings, HSBC, Standard Chartered…, cộng đồng quốc tế, nhà đầu tư đánh giá tích cực về môi trường đầu tư kinh doanh, duy trì mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất của khu vực và thế giới.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2030 và Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030, Việt Nam đã thay đổi cách tiếp cận từ thu hút sang hợp tác đầu tư, tạo sự kết nối giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước; mong muốn tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính toàn cầu; tiếp tục mở cửa nền kinh tế, thu hút FDI có chất lượng, hàm lượng công nghệ cao và có trọng tâm, trọng điểm; hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao trình độ khoa học công nghệ, năng lực sản xuất.
Với quyết tâm mạnh mẽ của Thủ tướng Chính phủ tại COP 26, Việt Nam là quốc gia đầu tiên cam kết và triển khai hiệu quả Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh, đồng thời đang đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển bền vững về môi trường và công bằng về xã hội.
Các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài đã cảm nhận được sự vào cuộc quyết tâm, chủ động và thực chất của Chính phủ, các bộ ngành cùng sự quảng bá, giới thiệu, kết nối của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để thúc đẩy phát triển toàn diện các lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt trong các lĩnh vực tiềm năng như đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, chip bán dẫn, năng lượng…
“Nhờ vậy, các Hiệp hội, Tập đoàn lớn trên thế giới như Hiệp hội bán dẫn Hoa Kỳ (SIA), Nvidia, SK, Samsung, John Cockerill… đều ghi nhận và xác định Việt Nam là địa bàn chiến lược để đặt cơ sở sản xuất và phát triển. Đây chính là những động lực quan trọng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo đà phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn tới”, ông Phương nhấn mạnh.
Trong thời gian tới, nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, sự phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất:
Về công tác phối hợp, Bộ Ngoại giao cần chỉ đạo các Cơ quan đại diện phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan trong nước, phát huy vai trò cầu nối thúc đẩy hợp tác đầu tư-thương mại giữa cộng đồng doanh nghiệp. Phối hợp kịp thời, thường xuyên, chặt chẽ với các hiệp hội, tập đoàn lớn của nước ngoài trong các lĩnh vực trụ cột tạo sự tăng trưởng đột phá bao gồm chip bán dẫn, năng lượng tái tạo, đối mới sáng tạo, hydrogen xanh, trung tâm tài chính... với nhiều hình thức linh hoạt, hiệu quả.
Có sự phân định rõ ràng vai trò, chức năng, nhiệm vụ trong các hoạt động xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại, xúc tiến du lịch, đảm bảo sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau chặt chẽ để đạt kết quả tốt nhất trong tổng thể công tác ngoại giao kinh tế.
(Ảnh: Tuấn Anh) |
Các địa phương khi thực hiện xúc tiến đầu tư cần bám sát quy hoạch, định hướng phát triển, có sự phối hợp thông suốt, hiệu quả trong tổng thể xúc tiến đầu tư quốc gia, tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, cạnh tranh lẫn nhau, làm triệt tiêu hiệu quả, không tạo thành sức mạnh tổng thể.
Về công tác thông tin, cập nhật, phổ biến rộng rãi các chính sách, quy định mới trong nước tới cộng đồng quốc tế và các cán bộ làm công tác ngoại giao.
Kịp thời chia sẻ các thông tin, tình hình diễn biến trên thế giới, các cơ hội hợp tác kinh doanh để các cơ quan trong nước nghiên cứu, cùng hợp tác để triển khai các nhiệm vụ xúc tiến theo chức năng nhiệm vụ.
Về công tác đào tạo, nghiên cứu, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan để bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao năng lực, nghiệp vụ cho các cán bộ thông qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, tăng cường giao lưu, học tập với các nước bạn.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với quốc tế nhằm rút ra các bài học, áp dụng vào phát triển kinh tế xã hội trong nước, đặc biệt với các vấn đề mới trên thế giới như thuế tối thiểu toàn cầu, kinh tế số...
Bộ Ngoại giao phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để kết nối, xây dựng mạng lưới tri thức về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, công nghệ cao, từ đó tạo nguồn lực trí thức dồi dào, đóng góp mạnh mẽ vào sự phát triển chung của đất nước.
Toàn cảnh Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
(Báo Thế giới & Việt Nam tiếp tục cập nhật...)