Kinh tế Việt Nam quý III/2020 đạt 2,62%. Hình ảnh các đại biểu chủ trì buổi Tọa đàm 'Công bố Báo cáo Kinh tế Vĩ mô quý III và chín tháng đầu năm 2020'. (Ảnh: V.P) |
Tọa đàm "Công bố Báo cáo Kinh tế Vĩ mô quý III/2020 và 9 tháng đầu năm 2020" do VEPR tổ chức đã diễn ra sáng nay (21/10) tại Hà Nội.
Tại Tọa đàm, Kinh tế trưởng VEPR PGS. TS Phạm Thế Anh cho biết, trước ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 lên kinh tế toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có mức tăng trưởng kinh tế dương trong quý III/2020, đạt 2,62%. Tính chung 9 tháng đầu năm, GDP tăng 2,12%.
Trong 9 tháng đầu năm, cả nước có gần 99 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 3,2% về số doanh nghiệp, tăng 10,7% về vốn đăng ký và giảm 16,3% về số lao động so với 9 tháng đầu năm 2019. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 81,8% so với cùng kỳ năm trước.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2020 cho thấy, có 32,2% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2020 tốt hơn quý II/2020; 31,9% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 35,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định.
Hoạt động bán lẻ và kinh doanh dịch vụ trong quý II/2020 có xu hướng gia tăng nhưng vẫn ở mức thấp. Cán cân thương mại quý III thặng dự 10,7 tỷ USD với vai trò tăng lên của khu vực trong nước.
Tuy nhiên, thu ngân sách giảm do Covid-19. Theo Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến quý III/2020 ước tính đạt 975,3 nghìn tỷ đồng, bằng 64,5% dự toán, giảm 11,5% so với cùng kỳ năm 2019.
Về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2020, PGS. TS Phạm Thế Anh chỉ ra rằng, nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào khả năng khống chế dịch bệnh không chỉ trong nước mà trên thế giới. Khi việc kiểm soát dịch Covid-19 trong các tháng còn lại của năm diễn ra thuận lợi như hiện nay, Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 2,6-2,8%.
"Những yếu tố có thể hỗ trợ cho tăng trưởng trong phần còn lại của năm bao gồm kỳ vọng về triển vọng kinh tế do việc hoàn tất ký kết Hiệp định Thương mại tự do và Bảo hộ Đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA và EVIPA) đem lại; tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh như mong đợi; chi phí nguyên nhiên vật liệu duy trì ở mức thấp do suy giảm nhu cầu tiêu thụ và sản xuất; làn sóng dịch chuyển đầu tư nhằm phân tán rủi ro từ thương chiến Mỹ-Trung và tận dụng các ưu đãi đầu tư tại Việt Nam", PGS. TS Phạm Thế Anh nhấn mạnh.
Tuy vậy, Kinh tế trưởng VEPR cho hay, Việt Nam cũng đang gặp nhiều rủi ro và thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất trắc. Sự tái bùng phát của dịch Covid-19 tại nhiều nước đi kèm với các biện pháp phong tỏa có thể kéo dài thời gian đứt gãy của chuỗi cung ứng. Xung đột địa chính trị giữa các nước lớn có thể khiến một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam đối diện những rủi ro bất ngờ.
Ngoài ra, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng, bị chững lại; sức khỏe hệ thống ngân hàng-tài chính tuy dần được củng cố nhưng còn dễ tổn thương; sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực đầu tư nước ngoài, thiếu sự chủ công nghệ và nguyên liệu; tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước bị ngưng trệ, môi trường và thể chế kinh doanh chất lượng còn thấp.
Vì vậy, ưu tiên hàng đầu lúc này là đảm bảo an sinh xã hội, giữ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động và hỗ trợ các doanh nghiệp còn hoạt động. Các chính sách an sinh xã hội vẫn cần được ưu tiên hàng đầu và cần phải được tiếp tục triển khai nhanh chóng, đúng đối tượng, trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.
PGS. TS Phạm Thế Anh cho biết, việc thực thi chính sách cần quan tâm hơn đến lao động trong khu vực phi chính thức bởi nhóm này chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác động nặng nề nhất và đang khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ. Trong các phương án có thể, thì cần ưu tiên cắt giảm kinh phí công đoàn (2% quỹ lương) để giảm chi phí cho doanh nghiệp.
"Việc giãn/giảm thuế, nếu có, chỉ nên được áp dụng với thuế VAT thay vì thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), vì giảm thuế TNDN chỉ hỗ trợ được số ít doanh nghiệp không bị ảnh hưởng hoặc đang hưởng lợi từ các tác động của dịch bệnh, chứ không giúp được đa số các doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Từ đó, việc giảm thuế TNDN còn có nguy cơ tạo ra bất bình đẳng sâu sắc hơn trong môi trường kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến việc phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19", PGS. TS Phạm Thế Anh nói.