![]() |
| Đại sứ đầu tiên của nước Việt Nam DCCH Nguyễn Lương Bằng trình thư ủy nhiệm lên Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô. |
Năm 1952, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt, Đảng và Nhà nước ta quyết định thiết lập Đại sứ quán (ĐSQ) Việt Nam (VN) tại Liên Xô (LX) - một trong hai cơ quan đại diện ngoại giao đầu tiên của nước ta ở nước ngoài. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng được cử làm Đại sứ đầu tiên của nước ta tại LX.
Đồng chí Nguyễn Lương Bằng là một lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, một người học trò rất gần gũi của Bác Hồ, một người thuộc thế hệ "khai quốc công thần". Ông được Bác Hồ trực tiếp huấn luyện ở Thượng Hải và Quảng Châu và được biết đến với biệt hiệu "Đồng chí Sao Đỏ" với những cuộc vượt ngục huyền thoại. Ông luôn nêu cao khí tiết anh hùng, bất khuất, được các đảng viên, kể cả các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước gọi với cái tên thân thương và trìu mến: Anh Cả.
Người Thủ trưởng gần gũi
Vào một ngày tháng Tư năm 1952, một đoàn cán bộ chỉ có 9 người được chọn từ các cơ quan Trung ương đã cùng Đại sứ rời chiến khu Việt Bắc lên đường sang LX nhận nhiệm vụ xúc tiến quan hệ với nước đồng minh lớn nhất, nước đứng đầu phe XHCN, đồng thời xây dựng cơ quan đại diện ngoại giao tại nước này.
Lúc bấy giờ tôi đang học ở Bắc Kinh được chọn cùng đồng chí Tạ Hữu Canh (nguyên Đại sứ VN tại CHDC Đức, nay đã mất) - nhập với đoàn cán bộ từ trong nước sang Mátxcơva nhận nhiệm vụ. Nhận quyết định tôi nửa mừng, nửa lo. Mừng vì sẽ được sang LX - nước XHCN đầu tiên trên thế giới, mơ ước của mọi cán bộ, đảng viên, của mọi người tiến bộ thời đó và sẽ có điều kiện học tập, nâng cao trình độ mọi mặt. Lo vì mới học hơn một năm, trình độ tiếng Nga còn ít ỏi không biết có đáp ứng được yêu cầu công tác không và một mối lo không nhỏ là chưa biết Thủ trưởng của mình là người như thế nào.
Qua những câu chuyện tôi được đọc và nghe kể về Anh, tôi hình dung Anh là một người cao to, rắn rỏi và nghiêm nghị. Nhưng khi đến gặp Anh, tôi rất ngỡ ngàng vì trước mắt tôi là một người có thể nói là hơi thấp, nét mặt vừa dịu hiền vừa nghiêm nghị, nói năng nhẹ nhàng và ngay từ cuộc nói chuyện đầu tiên, mọi lo âu của tôi đều biến mất, tôi cảm thấy thoải mái và gần gũi. Hình như anh đọc được suy nghĩ của tôi, Anh động viên "Tiếng Nga còn yếu không lo, sang đó có điều kiện học thêm, miễn có chí là sẽ giỏi".
Đoàn cán bộ rời Bắc Kinh lên đường đi thành lập ĐSQ gồm 12 người, phần lớn chưa có chút nhận thức gì về công tác ngoại giao, trừ Bí thư thứ nhất Nguyễn Đức Quỳ, đã từng làm đại diện của Chính phủ ta tại Thái Lan một số năm và Tiến sĩ luật Nguyễn Thương, đang là Chủ tịch Tổng hội sinh viên VN được cử làm Bí thư thứ hai. Lúc đó, chúng tôi đều gọi đồng chí Đại sứ là "Anh Cả" với tình cảm thân thương và quý trọng.
Ngôi nhà nhỏ ấm cúng
Ngôi nhà mà LX dành cho chúng ta làm ĐSQ là một ngôi nhà nhỏ một tầng với một góc có tầng hai nhưng trần thấp, chúng tôi thường gọi là gác xép. Nhà có 11 phòng lớn, lớn nhất là 30m2 dùng làm phòng khách, nhỏ nhất là 6m2 dùng làm chỗ làm việc. Chúng tôi đến Mátxcơva vào lúc Xuân sang, tuyết đang tan nên sân ĐSQ rất lầy lội. Những anh em được bạn dẫn đến nhận nhà tỏ ra thất vọng vì trên đường đi, ai cũng nghĩ giữa Mátxcơva tráng lệ, trụ sở ĐSQ chắc phải là một ngôi nhà to, hoành tráng, ít nhất cũng cao hai, ba tầng. Không biết có phải các đồng chí ở Bộ Ngoại giao (BNG) LX đưa chúng tôi đến nhận nhà nhận thấy điều đó hay không mà mấy hôm sau, trong cuộc gặp của lãnh đạo BNG với Đại sứ, sau khi trao đổi công việc, đồng chí Thứ trưởng Ngoại giao chủ động đề cập đến vấn đề trụ sở của ĐSQ và gợi ý: "Đó là ngôi nhà Cục phục vụ Đoàn ngoại giao tìm cho các đồng chí hơi nhỏ, để chúng tôi đổi cho các đồng chí ngôi nhà khác". Không cân nhắc, chần chừ, Anh Cả trả lời ngay: "Chúng tôi đang kháng chiến, đất nước còn nhiều khó khăn, ngôi nhà như vậy là tốt lắm rồi. Các đồng chí đừng băn khoăn". Anh kể lại cuộc nói chuyện này với anh em trong cơ quan và nhấn mạnh: "Chúng ta đang kháng chiến, các đồng chí trong nước đang sống và làm việc trong điều kiện rất thiếu thốn. Bác và các đồng chí lãnh đạo cũng đều đang sống ở chiến khu, điều kiện ăn ở và làm việc còn cực khổ hơn nhiều. Chúng ta không có quyền hưởng thụ, không có quyền sống phong lưu. Chúng ta phải sống và làm việc cho xứng đáng với sự hy sinh của đồng bào và chiến sỹ trong nước". Nghe vậy, tất cả chúng tôi đều thông suốt, vui vẻ. Nhà tuy nhỏ nhưng tất cả cán bộ, nhân viên ĐSQ đều làm việc, ăn, ở tại cơ quan, tuy chật hẹp nhưng gần gũi và ấm cúng. Khi có khách trong nước sang, anh em ở dồn lại, nhường chỗ cho khách.
Tiết kiệm nhưng phải đàng hoàng
Tôi nhớ lúc bấy giờ ta chưa có nguồn ngoại tệ nào nên Anh Cả đã ký Hiệp định vay Bạn một số tiền để chi tiêu cho ĐSQ. Anh nêu nguyên tắc: "Tiền chúng ta vay tương lai phải trả nên phải chi tiêu hết sức dè sẻn". Cùng với việc mua sắm ban đầu bảo đảm điều kiện vật chất tối thiểu cho hoạt động của một cơ quan đại diện, trang thiết bị tối thiểu cho chỗ ăn, chỗ ở của cán bộ, nhân viên, Anh còn cho xây dựng một chế độ cung cấp từ áo, quần đến ăn uống cho cán bộ, nhân viên; ngoài ra mỗi người được cấp tùy theo cấp bậc từ 50 Rúp cũ đến 100 Rúp cũ. Là Ủy viên Trung ương, Đại sứ, Anh cũng chỉ nhận 100 Rúp. Như vậy, Anh theo chế độ chung và mặc dù anh em ra sức thuyết phục, Anh cũng chỉ nhận như vậy.
Anh vẫn luôn nhắc chúng tôi phải tiết kiệm, tiết kiệm trong sử dụng phương tiện làm việc, tiết kiệm trong cuộc sống hàng ngày, nhưng phải đứng đắn, đàng hoàng; trong nhà xuềnh xoàng thì được, nhưng ra ngoài phải "đói cho sạch, rách cho thơm", không cần sang, chỉ cần sạch sẽ, đứng đắn vì dù làm việc gì, hàm cấp nào, mình là cán bộ, nhân viên Đại sứ quán khi ra ngoài đều mang tư cách đại diện cho đất nước, cho dân tộc.
Tuy tiết kiệm như vậy, nhưng Anh không tiếc tiền thuê thầy cho chúng tôi học, cả cơ quan học. Ngoài công việc, Anh còn giao cho tôi nhiệm vụ dạy Anh học tiếng Nga. Với tuổi tác và cuộc đời hoạt động cách mạng, trải qua tù đày, tra tấn dã man của quân thù, lại mang trong mình rất nhiều thương tật và trên vai biết bao gánh nặng Đảng và Nhà nước giao phó, học ngoại ngữ, lại là tiếng Nga không phải dễ; thế mà Anh rất quyết tâm, kiên trì và chăm chỉ, ngày nào cũng đúng giờ.
Anh sắp xếp và xem xét mọi việc rất cụ thể, kiểm tra từ việc bố trí nơi tiếp khách, sắp xếp chỗ làm việc, nơi ăn, chốn ở của cán bộ, nhân viên, đến các buổi tiếp khách, đặc biệt là đối với các buổi chiêu đãi bao giờ Anh cũng kiểm tra cẩn thận từ sắp xếp chỗ ngồi sao cho phù hợp với cương vị từng người, đến bát, đĩa, cốc chén sao cho sạch sẽ và sắp xếp đúng thủ tục. Chắc Anh không ngờ rằng tác phong cụ thể đó của Anh đã là những bài học thiết thực đối với chúng tôi biết chừng nào.
Năm 1955, lần đầu tiên Bác Hồ sang thăm chính thức LX, Bác đã đến thăm ĐSQ. Sau khi nghe Bác nói chuyện và dặn dò, anh em mời Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở. Không rõ do Bác biết tính cẩn thận của đồng chí Đại sứ hay đoán biết anh em chúng tôi đã chuẩn bị cẩn thận, dọn dẹp sạch sẽ chờ Bác đến, nên Bác khoát tay bảo "Bác biết rồi, nơi ăn chốn ở của các chú chắc sắp xếp cẩn thận lắm rồi, Bác không cần đi xem nữa". Có lần tôi hỏi sao Anh chưa làm ngoại giao bao giờ mà Anh nắm vững biện pháp lễ tân cụ thể như vậy. Anh cười: "Chính những năm tháng làm thuê và bôn ba để hoạt động cách mạng đã cho mình những kiến thức này".
Những bài học quý báu
Lúc này ta chưa có cơ quan đại diện ngoại giao ở các nước XHCN Đông Âu, Anh mặc nhiên thay mặt Đảng và Chính phủ giải quyết những việc liên quan đến các nước này mặc dù chính thức Anh không phải là Đại sứ kiêm nhiệm. Anh thường đại diện cho Trung ương Đảng và Chính phủ dự các sự kiện quan trọng của các nước Đông Âu như ngày Quốc khánh, ngày giải phóng, hoặc gặp lãnh đạo các nước anh em trao đổi ý kiến và xử lý các vấn đề quan hệ giữa nước ta với các nước này. Mỗi chuyến đi, để tiết kiệm chi tiêu anh chỉ chọn một người trong chúng tôi đi theo. Anh thường thay đổi người đi theo để tạo điều kiện cho tất cả anh em chúng tôi đều có điều kiện học tập. Đến nước nào Anh cũng gặp lãnh đạo Bạn, giới thiệu tình hình đất nước và cuộc kháng chiến của nhân dân ta và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Bạn, đồng thời giao cho chúng tôi gặp nhà báo hoặc cơ quan thông tấn, cơ quan tuyên truyền của Bạn cung cấp thông tin để họ viết bài giúp nhân dân nước Bạn hiểu cuộc kháng chiến nhất định thắng lợi của nhân dân ta. Lúc này thông tin liên lạc với trong nước rất khó khăn, Anh phân công chúng tôi nghe đài, tập hợp tin tức để thông báo cho cán bộ nhân viên cơ quan theo kịp tình hình quốc tế và trong nước và làm tài liệu tuyên truyền.
Mặc dù ĐSQ hoạt động theo chế độ Thủ trưởng và Anh lại là một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, Anh có thể tự quyết định mọi việc, song khi đánh giá tình hình hoặc khi xử lý những vấn đề quan trọng, tế nhị, Anh thường nêu cho các đồng chí có liên quan góp ý kiến trước khi quyết định.
Từ hội nghị Geneva về Đông Dương năm 1954 trở về trước, nhiệm vụ của ĐSQ chủ yếu là tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của LX cho cuộc kháng chiến chống Pháp và từ địa bàn LX nghiên cứu tình hình và phán đoán ý đồ của Pháp góp ý kiến cho trong nước. Đồng thời từ địa bàn LX tuyên truyền đi các nước về chính nghĩa của cuộc kháng chiến, phát huy thắng lợi trên chiến trường, qua đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước đối với quân dân ta. Từ năm 1954, sau khi Hiệp định Geneva về lập lại hòa bình ở VN được ký kết, ĐSQ đứng trước một loạt vấn đề mới và cụ thể cần phải xử lý: từ việc tranh thủ sự giúp đỡ của LX nhằm phục hồi kinh tế sau chiến tranh, xúc tiến quan hệ thương mại, tăng cường đào tạo cán bộ chuẩn bị cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước sau này.
Bên cạnh đức tính tiết kiệm, ý thức phát huy dân chủ và tinh thần coi trọng công tác kiểm tra, tôi còn nhận thấy ở Anh hai điểm rất quan trọng nữa, đó là:
Thứ nhất, Anh luôn quan tâm đến đoàn kết nội bộ. Anh giữ sinh hoạt cơ quan rất đều đặn và luôn nhắc nhở chi ủy giữ chặt chẽ sinh hoạt chi bộ định kỳ, qua đó kiểm điểm tinh thần trách nhiệm từng người, kịp thời rút kinh nghiệm nhắc nhở lẫn nhau, lấy phê bình tự phê bình để nâng cao ý thức trách nhiệm, củng cố đoàn kết nội bộ, nhờ đó tuy công việc nhiều, cơ quan ít người mà mọi việc đều được giải quyết trôi chảy, kịp thời.
Thứ hai là coi trọng nguyên tắc tổ chức. Do Anh là đồng chí lãnh đạo cao cấp, là ủy viên Trung ương Đảng (lúc bấy giờ ủy viên Trung ương Đảng không nhiều) và là một ngoại lệ trong điều kiện đặc biệt lúc bấy giờ nên công việc của ĐSQ do Anh phụ trách chủ yếu do Bác và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước chỉ đạo thông qua Văn phòng Trung ương Đảng. Bộ Ngoại giao (BNG) lúc này rất ít người, chỉ hỗ trợ một số việc nhất định.
Anh nhận thức đó là trường hợp đặc biệt trong một giai đoạn nhất định và dù muốn hay không, BNG cũng phải biết hoạt động của ĐSQ, do đó các báo cáo công tác định kỳ sáu tháng, một năm trừ những vấn đề chỉ liên quan đến Trung ương Đảng, báo cáo đánh giá tình hình quốc tế và tình hình LX ngoài việc gửi về Văn phòng Trung ương để báo cáo các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, Anh đều cho gửi về BNG.
Tôi còn nhớ năm 1953, Anh về nước dự Hội nghị Trung ương bàn về cải cách ruộng đất. Tôi được theo Anh về. Chúng tôi ở nhà khách của Văn phòng Trung ương Đảng trong rừng Chiêm Hóa. Anh yêu cầu tôi sắp xếp chương trình công tác và chuẩn bị nội dung để trước hết Anh báo cáo với Bác, anh Trường Chinh, anh Tô (Phạm Văn Đồng), anh Văn (Võ Nguyên Giáp), sau đó làm việc với Bộ trưởng Hoàng Minh Giám và làm việc với lãnh đạo các ngành, các cơ quan có liên quan đến những việc mà ĐSQ đang và sẽ phải giải quyết như các ngành kinh tế, thương mại, quân sự, tuyên huấn…
Chiều chúng tôi đến BNG. Ngày hôm sau, Anh làm việc với Bộ trưởng Hoàng Minh Giám và các cán bộ chủ chốt của BNG. Sau khi trình bày hoạt động của ĐSQ và những việc sẽ phải làm trong thời gian tới, Anh đặc biệt yêu cầu Bộ trưởng và các đồng chí ở BNG nhận xét về công tác của ĐSQ trong thời gian qua.
Tôi thầm nghĩ theo cách làm việc trong tình hình đặc biệt lúc bấy giờ, với cương vị của mình, Anh không nhất thiết phải báo cáo với BNG, nhưng việc làm của Anh chứng tỏ Anh coi trọng nguyên tắc tổ chức, vì về nguyên tắc và theo tập quán quốc tế, các ĐSQ đều đặt dưới sự chỉ đạo của BNG.
Ngày tiếp theo, chúng tôi rời BNG đi thẳng đến nơi họp Hội nghị Trung ương. Kết thúc Hội nghị, Anh lại đến các cơ quan Trung ương liên quan trao đổi về những công việc mà ĐSQ phải phối hợp giải quyết trong thời gian tới.
Sự quan tâm bồi dưỡng của Anh đối với tôi thể hiện ở việc thường xuyên chia sẻ với tôi những nhận xét của Anh, những điều Anh quan sát được qua các cuộc chiêu đãi của các sứ quán, qua những buổi lễ trọng thể tại LX và các nước Đông Âu mà Anh tham dự, từ cách đón khách, tiếp khác đến cách phát biểu khi tiếp xúc. Anh không nói với tôi về lý luận, nhưng sự chỉ đạo của Anh đối với công việc của ĐSQ và những kinh nghiệm Anh chia sẻ với tôi trong quan hệ tiếp xúc là những bài học thiết thực và quý báu đối với tôi không chỉ trong hoạt động đối ngoại, mà cả trong công tác điều hành một cơ quan.
Những bài học quý báu ấy mãi mãi theo tôi như những bạn đường, những trợ thủ tích cực trong suốt cuộc đời hoạt động ngoại giao của mình. Và như là một định mệnh, 35 năm sau, tôi trở thành người kế tục Anh ở cương vị Đại sứ VN tại LX.
Nguyễn Mạnh Cầm
Nguyên Ủy viên BCT, Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
