📞

Việt Nam cần nắm lấy thời khắc quan trọng hiện nay

23:21 | 16/06/2016
Hội thảo “Cách mạng sản xuất mới và hàm ý chính sách” hôm 16/6 là một dấu mốc thể hiện sự quan tâm và nỗ lực của Việt Nam đến xu thế chung của thời đại.

Hội thảo do Bộ Ngoại giao phối hợp với Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tổ chức hôm 16/6 tại Hà Nội, thu hút sự tham dự của đại diện các Bộ, ngành, cơ quan nghiên cứu - tham mưu, chuyên gia, học giả Việt Nam và chuyên gia OECD.

Với chủ đề “Cách mạng sản xuất mới và hàm ý chính sách”, Hội thảo đã diễn ra hai phiên thảo luận về đặc điểm của cách mạng sản xuất mới, tác động và hàm ý chính sách cho các nước.

Thích ứng với cuộc cách mạng mới

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định, cách mạng sản xuất mới đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển.

Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với việc hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như TPP, FTA với EU, Liên minh kinh tế Á - Âu..., việc tiếp cận thành tựu cách mạng sản xuất mới để tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhu cầu cấp thiết.

Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn đồng thời nhấn mạnh, cách mạng sản xuất mới đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam; mong muốn thông qua Hội thảo, các chuyên gia của OECD chia sẻ nghiên cứu, đánh giá về đặc điểm và tác động của cách mạng sản xuất mới.

Tại Hội thảo, các chuyên gia OECD đã trình bày một số nghiên cứu, đánh giá gần đây của OECD về cách mạng sản xuất mới. Ông Robert Ford, Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế OECD cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mới đang ở giai đoạn sơ khai, cũng như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, chưa thể đánh giá và dự báo hết được tác động của cách mạng công nghiệp lần này.

Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: Tuấn Anh/TGVN

Ông Alistar Nolan, chuyên gia phân tích cao cấp về khoa học - công nghệ và đổi mới của OECD đã có bài trình sâu về tác động của công nghệ mới đối với sản xuất, tiêu dùng và sinh hoạt của con người. Ông Nolan cho rằng, bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy...

Ông Nolan đánh giá các công nghệ mới không chỉ tác động về sản xuất, mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội, lao động, việc làm, an ninh, chính trị... Các chuyên gia của OECD khuyến nghị các nước cần đầu tư cho chính sách khoa học - công nghệ, tạo môi trường kinh doanh năng động để thúc đẩy lan tỏa công nghệ, cải cách thị trường lao động, hệ thống giáo dục - đào tạo.

Một số chuyên gia OECD nhấn mạnh các chính sách về đào tạo, nâng cao kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực để thích ứng với biến đổi nhanh của công nghệ và sự phát triển của cách mạng công nghiệp mới.

Tận dụng dư địa như thế nào

Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là một vấn đề mới thu hút sự quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Hội thảo “Cách mạng sản xuất mới và hàm ý chính sách” do Bộ Ngoại giao phối hợp với OECD tổ chức là hội thảo đầu tiên ở Việt Nam trao đổi về cuộc cách mạng này, góp phần tích cực để cơ quan lập chính sách, nghiên cứu và doanh nghiệp Việt Nam từng bước nắm bắt và tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra trên thế giới.

Theo Giáo sư Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam, có thể ghi nhận tính đánh dấu của hội thảo này trong việc đưa vấn đề cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những hàm ý liên quan đến Việt Nam như là một mốc mới về sự quan tâm và nỗ lực của Việt Nam đối với thời đại kinh tế mới.

Tại Hội thảo, các chuyên gia đều khẳng định hệ quả hay cơ hội mà cách mạng công nghệ đem lại liên quan đến nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội. Muốn hay không, con người cần phải thích ứng để không bị bỏ lại phía sau. Là người dân cần có những kỹ năng mới như lập trình, sử dụng công nghệ mới và đảm bảo công nghệ phải được sử dụng hiệu quả nhất; Là doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa cần vượt lên trên những khuôn khổ cũ, phổ biến công nghệ, phổ cập công nghệ mới, các công ty hàng đầu cần chia sẻ công nghệ của họ với mọi người; Là cơ quan quản lý cần có những cơ chế chính sách cho phù hợp để tận dụng năng lực con người, nâng cao hiệu suất doanh nghiệp, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật và riêng tư...

Giáo sư Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Tuấn Anh/TGVN

Ông Kensuke, Trưởng phòng Châu Á, OECD cho biết, gần đây Việt Nam được nhắc tới là một quốc gia có thu nhập trung bình và liên tục được cảnh báo tránh bẫy thu nhập trung bình. Theo tính toán của OECD, với tốc độ như hiện nay, phải mất 40 năm nữa Việt Nam mới được đứng vào hàng ngũ các quốc gia có thu nhập cao. Đây là một thách thức dài hạn đối với Việt Nam mặc dù Việt Nam còn nhiều dư địa để nâng cao năng suất của mình. Thậm chí, dù là nước đang phát triển, là nước đi sau, nhưng Việt Nam lại có lợi thế ít phải đầu tư để sáng tạo ra công nghệ mới mà được hưởng ngay thành quả của những nước đi trước. Tuy vậy, các nghiên cứu chỉ ra rằng năng  suất lao động của Việt Nam vẫn kém hơn so với các quốc gia khác.

Giáo sư Trần Đình Thiên băn khoăn về con số 40 năm trên liệu đã đúng với Việt Nam? Bởi cách đây 20 năm, Việt Nam từng ghi nhận việc chuyển đổi kinh tế sang nền kinh tế tri thức. Thực tế cho thấy, Việt Nam đã dịch chuyển, có sự thay đổi lớn nhưng chưa thực sự thay đổi về đẳng cấp phát triển, Việt Nam tiến về phía nền kinh tế tri thức rất chậm chạp, quá trình triển khai không theo kịp với nhận thức. 30 năm đổi mới, thu nhập trung bình của Việt Nam tăng lên 1800 USD, trong khi cũng từng ấy năm Hàn Quốc tăng lên đến 10.000 USD. Ông Thiên băn khoăn không hiểu Việt Nam cần đến 40 năm để trở thành nước thu nhập cao hay phải 60 năm, và liệu đến cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư có lại như thế hay không?

Toàn cầu hoá gắn liền với thời đại, Việt Nam muốn vượt lên thì phải tập trung vào hội nhập và toàn cầu hoá. TPP, EVFTA tạo cơ hội cho Việt Nam trở nên rất đặc biệt. Việt Nam đã ký những hiệp định ở mức cao nhất với những quốc gia tiềm lực cao nhất, mạnh nhất, công nghệ mới nhất. Đây là một lựa chọn chiến lược. Theo ông Thiên, những nước đi sau muốn bứt lên được phải “bám đúng, bám lâu” theo cách của mình vào những nước đi trước.

Thời điểm hiện nay rất quan trọng đối với Việt Nam. Cơ hội rất nhiều nhưng sức cản cũng nhiều như vậy. Những dịch chuyển thời đại, những sức cản này yêu cầu sự nỗ lực, chi phí, cách tiếp cận như thế nào? Trả lời được câu hỏi ấy, Việt Nam sẽ thực sự có bước phát triển nhảy vọt, ông Thiên khẳng định.