Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975. |
Ngày 21/4/1975, sau khi Xuân Lộc, khu vực phòng ngự then chốt của Mỹ – Thiệu bị thất thủ, tình hình quân sự của chính quyền Sài Gòn rơi vào thế tuyệt vọng cùng cực. Lật đổ chính quyền Thiệu là một trong hai điều kiện tiên quyết để cộng sản chấp nhận thương thuyết. Vì vậy, để cứu vãn Sài Gòn, không có cách nào khác hơn là Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức tổng thống sau tám năm cầm quyền dù chưa hết nhiệm kỳ.
Sài Gòn từ ngày 21/4 đến ngày 26/4/1975
Trước tình hình quân sự lúc này cộng với thái độ của Mỹ đối với mình, tối 21/4/1975, Thiệu đã tuyên bố từ chức.
Có vẻ như Mỹ không còn đủ sức để giải quyết vấn đề Sài Gòn trong lúc này nên cần có bàn tay của Pháp nhúng vào. Theo ý kiến của đông đảo giới chính trị Sài Gòn và theo ý kiến của Pháp thì người lên thay Thiệu phải là Dương Văn Minh nhưng Mỹ lại cho rằng chưa cần đến “giải pháp Dương Văn Minh”. Vì vậy mà người được Mỹ chọn làm Tổng thống lại là Trần Văn Hương, Phó Tổng thống của chính quyền Thiệu. Hương và Thiệu thực ra cũng là một, cùng chống cộng quyết liệt nên không thể có giải pháp hòa bình, thương lượng với chính phủ Trần Văn Hương. Cả hai phía Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều biết rõ điều này.
Trong khi Mỹ đang nỗ lực tìm kiếm một nhân vật thuộc lực lượng thứ ba lên nắm quyền thì Hương chỉ là “một con bài quá độ”, đóng vai trò chuyển tiếp trong thời gian ngắn. Trong lúc đó, tình hình quân sự rất gay go đối với chính quyền Sài Gòn. Chính phủ Sài Gòn chỉ còn tổng cộng hơn năm sư đoàn, trong khi đó quân cách mạng có đến năm quân đoàn. Khả năng cứu vãn về quân sự là không thể.
Trong “không khí ảm đạm về hoàn cảnh quân sự” này, đấu trường chính trị Sài Gòn lại sôi động hẳn lên. Nhiều người tin tưởng Dương Văn Minh – người cầm đầu lực lượng tranh thủ hòa bình, hòa giải dân tộc có “đủ điều kiện để thương thuyết với Việt Cộng” nhưng Hương lại không chịu từ chức, cố bám ghế tổng thống dù phải chịu sức ép từ phía Mỹ.
Đối với chính phủ Trần Văn Hương, dường như Washington không có sự điều khiển gì mà chỉ lo cho vấn đề di tản – một vấn đề gây hoảng loạn ở Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam. Vì vậy, lúc này, đối với vấn đề Sài Gòn chỉ có Pháp là nước có nhiều tác động nhất.
Pháp nỗ lực tìm “giải pháp chính trị”
Sau khi Buôn Ma Thuột bị mất, Pháp đề nghị với Sài Gòn một phương án mới là gạt Thiệu và thi hành hiệp định Paris nhưng Mỹ và Việt Nam Cộng hoà từ chối thảo luận ý kiến này.
Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng nhận được lời gợi ý của Pháp và không bác bỏ phương án này khiến Pháp càng thêm cố gắng “làm việc vừa ở Paris vừa ở Sài Gòn, người Pháp thúc ép việc gạt Thiệu như là một điều kiện tiên quyết cho việc mặc cả nghiêm chỉnh”. Pháp hy vọng với sức ép nhiều mặt, Thiệu phải ra đi và nhường chỗ cho một chính quyền mới dưới sự cầm đầu của một nhân vật không thuộc phe Thiệu để có thể đáp ứng những yêu cầu của ta, hy vọng có thể thu xếp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có “một con đường thứ ba” nào đó. Còn nếu không có được “con đường thứ ba” thì phải dàn xếp với phía cách mạng vì Pháp cũng lo ngại rằng nếu quân giải phóng vào Sài Gòn nhưng gặp phải lối “tử thủ” của Thiệu thì tuy quân ta đánh bại quân Thiệu nhưng Sài Gòn sẽ bị tàn phá, các lợi ích của Pháp có thể bị phá hủy, đồng thời có thể đẻ ra vấn đề “con người” rất lớn như tị nạn hay trả thù…
Trong Bộ Ngoại giao Pháp và các cố vấn ở Phủ Tổng thống có hai xu hướng giải quyết đối với vấn đề Sài Gòn. Một thì ra sức hoạt động cho một sự thu xếp ngừng bắn, một thì chủ trương nên tính chuyện làm ăn với Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Ngày 24/3, Đại sứ Pháp tại Hà Nội Philippe Richer và Thủ tướng Phạm Văn Đồng có cuộc tiếp xúc bàn về vấn đề lật đổ chính phủ Thiệu và thành lập một chính phủ có thể nói chuyện với cách mạng. Chính Mỹ cũng đành bó tay trước tình hình Sài Gòn nên không biết làm gì hơn là đồng ý để người Pháp vận động thành lập chính phủ thuộc phe thứ ba.
Để làm cái việc “cứu vãn chính quyền Sài Gòn”, Pháp đã có nhiều cuộc tiếp xúc nhưng hai nhân vật quan trọng nhất được họ quan tâm đến là Bộ trưởng Quốc phòng của Thiệu là Trần Văn Đôn và tướng Dương Văn Minh. Còn tổ trưởng tình báo Pháp ở Sài Gòn, Pierre Brochand thì“long tong chạy tới chạy lui cả hai phe Việt Nam”. Để có thể tiến tới thành lập một chính phủ liên hiệp, Pháp đã cố thuyết phục Hương từ chức để thay vào đó người của mình là Dương Văn Minh - người vẫn thường xuyên cho rằng: “Chỉ có Pháp là nước có đủ tư cách nhất để can thiệp với các cường quốc và các bên hữu quan”, rằng: “Còn có ai có thể nói chuyện với Hà Nội và Mặt trận giải phóng nếu không phải là Pháp”. Vì vậy mà hai ngày 24 và 25/4, Đại sứ Pháp tại Sài Gòn Jean Marie Merillon đã ra vào Dinh Độc lập tới ba lần để thuyết phục Trần Văn Hương từ chức. Khi đã không được Mỹ và Pháp ủng hộ thì lẽ đương nhiên là Hương không tại chức được nữa.
Đến ngày 26/4, Pháp còn bổ nhiệm một đại diện của chính phủ đi Sài Gòn để liên lạc với chính phủ Cách mạng lâm thời. Đó là ông Michell Mirillon, giữ chức vụ ngang với trưởng phái Bộ thường trực của chính phủ Cách mạng lâm thời tại Paris. Hoạt động này cho thấy Pháp vẫn tin vào các cuộc thương thuyết nhưng theo họ thì việc này nên được tiếp tục ở Việt Nam hơn là ở Paris nên họ xúc tiến tại Sài Gòn.
Động cơ của Pháp là gì?
Trong khi các nước phương Tây như Anh, Cộng hòa Liên bang Đức, Italy, Hà Lan, Bỉ,… đều lần lượt rút các đại sứ quán của họ ở Sài Gòn từ ngày 24/4/1975 nhưng Pháp lại không. Pháp là quốc gia duy nhất lúc đó có đại sứ quán đồng thời tại hai nơi: Hà Nội và Sài Gòn. Đó là một lợi thế ngoại giao để đóng vai trò trung gian trong kết thúc chiến tranh Việt Nam, chưa kể họ còn là chủ nhà của hội nghị Paris. Vì vậy, Pháp tin rằng mình có thể cứu vãn chính quyền Sài Gòn sắp sửa sụp đổ hoàn toàn.
Khi Mỹ thử nghiệm chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, Mỹ được nhiều lợi ích nhất và kế sau Mỹ không ai khác là Pháp trên các mặt kinh tế, văn hóa và chính trị.
Pháp còn nhiều ảnh hưởng ở miền Nam, sự tồn tại của chính quyền này sẽ là điều kiện cần thiết cho lợi ích của họ. Ra tay cứu vãn chính quyền Sài Gòn cũng chính là bảo vệ lợi ích của Pháp.
Trong thời kỳ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, Pháp cũng như nhiều quốc gia thấy đây là cơ hội để gây ảnh hưởng của mình tìm một giải pháp có lợi cho họ như Trung Quốc, Indonesia… Thực dân Pháp muốn thế chân Mỹ, muốn dựng lên ở miền Nam Việt Nam một chính quyền thân Pháp, “muốn thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ”. Tham vọng của Pháp quá lớn, trong khi thực tế tình hình chính quyền Sài Gòn lại quá bi đát.
* * *
Pháp “chạy tới chạy lui” ở hậu trường chính trị Sài Gòn nhằm thiết lập một chính phủ liên hiệp hòng đi tới thương thuyết với chính quyền cách mạng. Quả là mơ tưởng hão huyền trong khi khí thế tiến công quân sự của cách mạng mạnh như vũ bão, chính quyền Sài Gòn không có cách nào ngăn chặn nổi thì làm sao họ có thể nghĩ rằng chính quyền cách mạng sẽ chấp nhận thương lượng! Mặc dù “giải pháp chính trị” của Pháp cũng được thực hiện, Dương Văn Minh lên thay Trần Văn Hương nhưng cũng không thể làm được gì trước tình hình quân sự nói chung và Sài Gòn nói riêng là không còn khả năng cứu gỡ. Sáng ngày 30/4/1975, Dương Văn Minh đã thâu băng tuyên cáo đầu hàng nhưng tướng hồi hưu, từng làm chỉ huy trưởng trung tâm nghiên cứu quân sự thời Thiệu, Francois Vanuxem lại đến cản việc phát băng vì muốn hiến kế cho Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn.
Như vậy là đến phút chót, người Pháp vẫn còn muốn dính líu đến chính quyền Sài Gòn trong khi người Mỹ đã di tản hết. “Giải pháp chính trị” của Pháp cuối cùng đã thất bại.
NGUYÊN AN (theo Nam Bộ, Đất và Người)