Các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành điện tử tại Việt Nam phần đông là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. (Nguồn: VnEconomy) |
Chiều 11/9, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo chuyên đề “Cầu nối liên kết doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam vào chuỗi giá trị của ngành điện tử”. Hội thảo nằm trong khuôn khổ Triển lãm quốc tế NEPCON Việt Nam 2019 từ 11-13/9.
Theo ông Vũ Trọng Tài – Tổng giám đốc Công ty Reed Tradex Việt Nam – đơn vị tổ chức Triển lãm quốc tế NEPCON Việt Nam 2019, các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành điện tử tại Việt Nam phần đông là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và tại các quốc gia Đông Nam Á, nhóm các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn được xem là trụ cột, xương sống của nền kinh tế.
Nhằm hỗ trợ nhóm này, Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ (USAID), quyến định thực hiện Dự án liên kế giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa (LinkSME) trong giai đoạn 2018 – 2023 với tổng ngân sách dự kiến là 22, triệu USD. Dự án có mục tiêu củng cố mối quan hệ nhà cung cấp – bên mua nhằm giúp các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Phát biểu tại Hội thảo, ông Ron Ashkin, Giám đốc Dự án USAID Link SME nhận định, Các doanh nghiệp Việt, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tiềm năng rất lớn và cần được hỗ trợ để tiếp cận thông tin, nguồn đầu tư để có thể tự tin và vững vàng cạnh tranh cùng các đối thủ trong và ngoài nước.
Theo Đại diện Link SME, Việt Nam đã trở thành điểm sản xuất một số mặt hàng công nghiệp có giá trị cao như điện thoại di động, máy tính bảng... Dù vậy, các doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ông Ron Ashkin dẫn chứng, trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm 70% lượng xuất khẩu năm 2018, đạt khoảng 244 tỷ USD. Điều đáng nói, phần lớn doanh nghiệp FDI liên kết với nhà cung cấp nước ngoài. Cụ thể, năm 2018, khu vực FDI đã phải nhập khẩu 47,1% đầu vào từ các công ty mẹ ở nước ngoài.
Điều đáng nói, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam chiếm tới 98%, nhưng chỉ có 21% số này liên kết với chuỗi cung ứng nước ngoài. So sánh tỷ lệ này thấp hơn nhiều nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan là 30%, Malaysia 46%.
Khảo sát chỉ số PCI của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng cho thấy, đa số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho các công ty tư nhân trong nước (64%) và chỉ có 15% doanh nghiệp tư nhân Việt Nam bán hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Bên cạnh đó, 8,4% xuất khẩu sản phẩm trực tiếp và 7,4% xuất khẩu gián tiếp thông qua bán hàng cho các doanh nghiệp mua hàng bên thứ 3.
Theo ông Ron Ashkin, những bất cập trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu chính từ việc áp dụng kỹ thuật kém nên năng suất lao động thấp, việc thiếu kinh nghiệm làm việc với doanh nghiệp nước ngoài, lao động thiếu tay nghề... khiến Việt Nam ít có doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi đầu - cuối. Cộng với việc kết nối kém với nguồn tài chính là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp Việt Nam khó tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Điều đáng quan ngại nữa, các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam chưa hài lòng về chất lượng và năng lực của các nhà cung cấp nội địa. Gần 60% cho rằng khó hoặc rất khó đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá để có thể hưởng các ưu đãi thương mại do họ gặp phải các vấn đề về chất lượng và năng lực của các doanh nghiệp trong nước.